Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2013

THÁI HẬU Ỷ LAN : NHÀ CHÍNH TRỊ KIỆT XUẤT

Nguồn: Đài RFI
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, có rất ít phụ nữ nổi bật trên chính trường. Đấy không phải là bởi vì phụ nữ nước ta không có tài làm chính trị, mà bởi vì ngày xưa phụ nữ luôn bị kềm kẹp trong cái câu “tam tòng tứ đức”, luôn sống trong cái cảnh “khuê môn bất xuất”. 
Chính vì thế, nhân vật nữ nào được nổi bật thì ất phải là kiệt xuất lắm. Và cách đây hơn 800 năm, lịch sử Đại Việt đã biết đến một phụ nữ kiệt xuất có tài kinh bang tế thế : Thái Hậu Ỷ Lan.
Về nhân thân của bà Ỷ Lan, còn nhiều điểm chưa rõ. Xem xét các bộ sử liên quan, đại khái bà sinh vào khoảng năm 1044 và mất năm 1117. Tên của bà sử cũ cũng không thống nhất, có thuyết cho rằng bà tên là Lê Khiết Nương, có thuyết thì bảo là Lê Thị Khiết, cũng có thuyết nói là Lê Thị Yến Loan.
Cô gái tựa gốc lan
Lúc chưa vào cung, bà là một cô gái hái dâu, chăn tằm ở làng Thổ Lỗi (còn có tên là làng Sủi, nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Câu chuyện tiến cung của bà khá lãng mạn, và cũng là nguồn gốc của tên Ỷ Lan, cái tên nổi tiếng đến mức mà đời sau không ai còn chú ý đến tên thật của bà nữa. Sử cũ chép về câu chuyện này đại để như sau :
Thuở ấy vào năm Quý Mão (1063), vua Lý Thánh Tông đã bốn mươi tuổi mà vẫn chưa có con trai để truyền ngôi báu. Vua bèn thân hành đi cầu tự khắp các chùa chiền, miếu mạo nhưng không hiệu nghiệm, nhà vua vô cùng lo lắng. Một sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương quang phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá. Trai gái, già trẻ các làng đều ra rước vua.
Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy có một cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá của vua không có quan hệ gì đến mình. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái có vẻ "kiêu căng" đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Cô gái ung dung nhẹ nhàng tới quỳ tâu: “Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ có đâu dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng".
Vua thấy cô gái tuy ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ thì đoan trang dịu dàng, lời nói phong nhã, đối đáp phân minh, lễ nghĩa rành rành. Vua yêu vì sắc, trọng vì nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô. Về đến kinh đô, vua Thánh Tông cho dựng cung Ỷ Lan với ý nghĩa là gợi nhớ lại câu chuyện nhà vua đã gặp cô gái đứng tựa cây lan (Ỷ Lan tức là: tựa cây lan), và phong cho cô gái hái dâu làng Thổ Lỗi làm Ỷ Lan Phu Nhân.
Chuyện hậu cung
Ba năm sau khi tiến cung, Ỷ Lan Phu Nhân hạ sinh cho vua Thánh Tông vị hoàng tử đầu tiên, hoàng tử Càn Đức, tức vua Lý Nhân Tông sau này. Nhờ đó, Ỷ Lan Phu Nhân được gia phong Ỷ Lan Thần Phi. Vào năm 1068, Ỷ Lan Thi Thần Phi hạ sinh thêm một hoàng tử nữa, và được phong là Ỷ Lan Nguyên Phi (đứng đầu các phi, chỉ sau Hoàng Hậu Thượng Dương lúc bấy giờ).
Năm 1072, vua Thánh Tông mất, con trai Nguyên Phi Ỷ Lan là Thái tử Càn Đức lên ngôi lấy hiệu là Lý Nhân Tông. Tân vương sinh năm 1066, tức lên ngôi chỉ mới 6 tuổi, do đó cần có Thái hậu buông rèm nhiếp chính. Theo điển lệ lúc bấy giờ, bất kể là mẹ ruột của vua hay không, miễn là Hoàng hậu thì sẽ được phong làm Thái hậu và được buông rèm nhiếp chính. Hoàng hậu của vua Thánh Tông là bà Thượng Dương, và thế là Hoàng Hậu Thượng Dương được phong Thái Hậu nhiếp chính, trong khi đó bà Ỷ Lan là mẹ ruột lại chỉ được phong là Thái Phi (đứng sau Thái hậu). Tức vì con mình đẻ ra mà mình lại bị thua kẻ khác, nên Thái Phi Ỷ Lan mới rấp tâm hại Thượng Dương Thái Hậu.
Sự việc xảy ra vào năm 1073, sử cũ chép như sau:
« Linh Nhân (tức bà Ỷ Lan-LP) có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: “Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú qúy người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Thượng Dương Thái Hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông ».
Sau đó, vua Nhân Tông mới phong cho mẹ ruột làm Linh Nhân Thái Hậu nắm quyền buông rèm nhiếp chính. Như thế, cô gái hái dâu làng Thổ Lỗi năm nào, sau 10 năm tiến cung, không chỉ trở thành mẫu nghi thiên hạ cai quản hậu cung, mà còn nắm đại quyền điều hành đất nước.
“Rằng tôi chút phận đàn bà….”
Vụ bức tử Thượng Dương Thái Hậu và hơn 70 cung nữ nói trên là vết mờ trong bức tranh sáng lạng về sự nghiệp của Thái Hậu Ỷ Lan. Sự việc đã bị các sử gia phong kiến chỉ trích. Thế nhưng, ở đây có một điểm đáng chú ý, đó là sự chỉ trích của các sử gia phong kiến vốn nặng tính Nho Giáo đã không quá gay gắt, mà hơn nữa còn tỏ ra thông cảm.
Chẳng hạn như sử gia Nho Giáo Ngô Sĩ Liên phê rằng: “Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết đích thái hậu, hãm hại người vô tội, tàn nhẫn đến thế ư? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại là mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với vua”.
Một lần phạm tội sử sách đã không quên, nhưng các sử gia lại tỏ ra thông cảm với cái chuyện “Ghen tuông vốn chuyện người ta thường tình” như cụ Nguyễn Du đã nói trong Truyện Kiều. Sự cảm thông này có thể hiểu được, bởi vì đối với đại cục, với dân với nước, Thái Hậu Ỷ Lan đã có những đóng góp vô cùng to lớn.
Hai lần nhiếp chính
Tài làm chính trị của Thái Hậu Ỷ Lan được thể hiện ngay cả khi bà còn là Nguyên Phi. Số là vào năm 1069, vua Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt mang quân đi đánh nước Chiêm ở phía Nam, vua tin tưởng giao quyền nhiếp chính cho Nguyên Phi Ỷ Lan. Sử cũ chép rằng : bà nguyên phi Ỷ Lan trị nước rất giỏi, khiến dân tâm hòa hiệp, cõi nước thanh bình. Dân gian sùng đạo Phật, tôn bà là “Quan Âm”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép một mẫu chuyện mà theo đánh giá của nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần là “Chút sĩ diện đáng yêu của vua Lý Thánh Tông” như sau :
“Trận này, vua đánh Chiêm Thành mãi không được, bèn rút quân về. Đến Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Hưng), vua hỏi thăm nhân dân, thấy nhân dân hết lời ca ngợi tài trị nước của Ỷ Lan, vua mới thở than: “Kẻ kia là đàn bà còn làm được như thế, là nam nhi lại chẳng làm được việc hay sao?”. Nói xong bèn quay lại đánh nữa và thắng được”.
Lần nhiếp chính thứ hai xảy ra sau khi vua Lý Thánh Tông mất vào năm 1072. Như đã nói, Thái Phi Ỷ Lan đã bức hại Thái Hậu Thượng Dương vào năm 1073 và chiếm ngôi Thái Hậu nhiếp chính.
Thế nhưng, vừa nắm được quyền bính, Thái Hậu Ỷ Lan đã phải lèo lái chính quyền nhà Lý cứu nguy cho chủ quyền dân tộc. Số là vào năm 1076, quân Tống xâm lấn nước ta. Trước sức mạnh như vũ bão của giặc, Thái Hậu Ỷ Lan đã biết đặt lợi ích quốc gia lên trên hiềm khích cá nhân. Chuyện là, trước đây, Lý Đạo Thành về phe Thái Hậu Thượng Dương còn Thái Phi Ỷ Lan thì dựa vào Lý Thường Kiệt. Năm 1073, Thái Hậu Thượng Dương bị bức tử, Lý Đạo Thành bị giáng chức ra tận Nghệ An.
Thế nhưng, để tạo được sức mạnh đoàn kết bên trong mà chống giặc ngoài, Thái Hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ và triệu Lý Đạo Thành về kinh giao cho chức Thái Phó Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự trông lo nội chính, còn Lý Thường Kiệt thì tập trung sức lực dẫn quân chống ngoại xâm. Một cách khái quát, triều đình dưới quyền Ỷ Lan, văn có Lý Đạo Thành còn võ thì có Lý Thường Kiệt.
Và kết quả là cuộc chiến chống quân Tống năm 1076-1077 đã chiến thắng vẻ vang với trận Như Nguyệt đi vào lịch sử. Và với sự bất tử của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, một bài thơ được xem là ‘‘Bản Tuyên ngôn Độc lập’’ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Chưa hết, trước khi đánh quân Tống, Lý Thường Kiệt đã mang quân đánh Chiêm vào năm 1075 và giành được chiến thắng. Nên nhớ rằng, việc “Phá Tống, bình Chiêm” của Lý Thường Kiệt diễn ra thành công khi ấy vua Nhân Tông chỉ là một cậu bé lên mười. Và như thế, việc triều đình tất nhiên do Thái Hậu Ỷ Lan lãnh đạo. Ỷ Lan chỉ là một người đàn bà sống trong cái xã hội do đàn ông thống trị xưa kia, thì quả thật, nếu không có thực tài chính trị để điều hành đất nước, thì bà cũng không dễ gì lãnh đạo nổi hai nhân vật kiệt xuất như Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành.
Đào tạo một minh quân cho đất nước
Thái Hậu Ỷ Lan rất hiểu nỗi đau khổ của nông dân. Khi Lý Thánh Tông mất, con bà lên ngôi, bà đã làm được nhiều việc có ích cho dân. Ở nông thôn bấy giờ có nhiều phụ nữ vì nghèo mà phải bán mình, đem thân thế nợ, không thể lấy chồng được, bà Ỷ Lan đã lấy tiền bạc trong quốc khố chuộc những người ấy và đứng ra dựng vợ gả chồng cho họ.
Thái Hậu Ỷ Lan rất hiểu rằng đối với người nông dân thì “con trâu là đầu cơ nghiệp”, nên đã nhiều lần nhắc nhở vua Nhân Tông phạt nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu. Tháng hai năm Ðinh Dậu (1117), giai đoạn trước khi bà mất, bà còn nhắc nhở vua một lần nữa : “Gần đây, người kinh thành và làng ấp có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đã từng mách việc ấy và nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước”.
Lời khuyên vua trên đây chứng tỏ tuy Thái Hậu Ỷ Lan quan tâm theo dõi và lo lắng đến đời sống nông dân. Không chỉ có thế, kinh tế Đại Việt bấy giờ cái chính vẫn là nông nghiệp, bởi vậy chăm lo cho nông dân cũng chính là chăm lo cho nền kinh tế đất nước. Tuy việc con trâu bề ngoài là chuyện nhỏ, nhưng lại có ý nghĩa chiến lược rất lớn vậy.
Vâng lời mẹ, vua Lý Nhân Tông hạ lệnh truy bắt và trừng trị những kẻ chuyên nghề ăn trộm trâu. Không những thế việc giết trâu ăn thịt những ngày giỗ đám cũng bị hạn chế. Chính quyền nhà Lý quy định ở Thăng Long cũng như tại các địa phương trong cả nước cứ ba nhà lập một “bảo” kiểm soát lẫn nhau và cùng liên đới chịu trách nhiệm về tội lạm giết trâu bò.
Ngoài những đóng góp nói trên, Thái Hậu Ỷ Lan còn có một đóng góp vô cùng quan trọng mà không thể nào không nhắc tới, đó là bà đã sinh ra và đào tạo được một minh quân cho đất nước như Lý Nhân Tông. 
Các bộ sử đều ghi lại việc đất nước phát triển phồn thịnh về mọi mặt dưới thời Lý Nhân Tông. Đặc biệt về giáo dục, vào năm 1075, triều đình cho mở khoa thi tam trường để lấy người văn học ra làm quan.  Đây là kỳ thi đầu tiên ở nước ta, chọn được hơn 10 người trong đó thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Năm 1076, triều đình lập Quốc Tử Giám, được xem là trường đại học đầu tiên của nước ta. Nền giáo dục Nho Học của nước Việt bắt đầu từ đó.
Ta thấy trong giai đoạn này, vua Nhân Tông chỉ độ 10 tuổi, Lý Đạo Thành lo việc nội chính, Lý Thường Kiệt thì lo đánh giặc ngoại bang, trên thì có Thái Hậu Ỷ Lan lãnh đạo. Sử gia Trần Trọng Kim nhận định về giai đoạn này như sau: “…trong thì sửa sang được chính trị, ngoài thì đánh nhà Tống, phá quân Chiêm. Ấy cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi cho nên mới thành được công nghiệp như vậy”. Và lẽ dĩ nhiên, để có được cái “tôi hiền tướng giỏi” đó, thì người lãnh đạo tối cao là Thái Hậu nhiếp chính phải có thực tài lãnh đạo.
Trở lại trường hợp của vua Lý Nhân Tông, khi lớn khôn, ông vẫn theo đường lối mà mẹ ông đã làm khi nhiếp chính để xây dựng một đất nước phồn thịnh. Sử cũ chép rằng, khi Thái Hậu Ỷ Lan mất, vua Nhân Tông đã làm theo đúng di nguyện của bà là hỏa táng theo nghi thức Phật Giáo. Điều đó cho thấy vua có hiếu và kính mẹ như thế nào. Và điều đó càng cho thấy, Thái Hậu Ỷ Lan có uy với triều đình và với nhà vua như thế nào.
Thái Hậu Ỷ Lan mất vào năm 1117, còn vua Nhân Tông mất năm 1127, tức chỉ cách nhau có mười năm. Có thể nói rằng, nhà vua chỉ được hoàn toàn “tự do” khỏi sự ảnh hưởng của mẹ được 10 năm mà thôi. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ca ngợi tài đức của vua Lý Nhân Tông như sau: “…sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp người theo, thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, nước được thái bình, là vua giỏi của triều Lý”. Và vua Nhân Tông càng tài giỏi, thì cái công giáo dưỡng của Thái Hậu Ỷ Lan lại càng to lớn.
Học rộng biết nhiều
Phụ nữ ngày xưa chỉ quen việc « khuê môn bất xuất », còn việc học hành ra thi thố với đời là đặc quyền của đấng mày râu. Thái Hậu Ỷ Lan xuất thân chỉ là cô gái hái dâu thì chắc chắn không có điều kiện để học hành nhiều được. Sử cũ không thấy chép là bà Ỷ Lan ăn học tới đâu, nhưng qua những thể hiện cụ thể, ta thấy bà là người học rộng, biết nhiều.
Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai Quốc (tức sau này là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long), để thết đãi các sư. Tiệc xong, bà ngồi kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Bà có óc phán đoán, đòi hỏi các sư “nói có sách, mách có chứng”. Chính những lời đối đáp giữa bà với các bậc cao tăng đã đặt nền tảng đầu tiên cho việc ra đời của sách Thiền Uyển Tập Anh (nghĩa là Anh Tú Vườn Thiền) rất có giá trị sau này. Xin trích một bài kệ bàn về chuyện sắc không trong tác phẩm này :
Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc? Không? thôi mặc cả,
Mới thấu được chân tông
Chỉ bốn câu thôi cũng đủ thấy trình độ tinh thông Phật Pháp của Thái Hậu Ỷ Lan cao đến dường nào !
Nhiều ngôi chùa tháp có quy mô to lớn bề thế, có trang trí đẹp mắt đã được xây dựng lên trong “thời đại Ỷ Lan” này : chùa Giạm (Quế Võ, Hà Bắc) 1086, chùa Một Mái ở động Hoàng Xá (Quốc Oai, Hà Tây)1099, chùa Phật Tích (Tiên Sơn, Hà Bắc) 1100, chùa Bảo Ân (Ðông Sơn, Thanh Hóa) 1100, tháp Chương Sơn (Ý Yên, Nam Hà) 1108, chùa Bà Tấm hay còn gọi là Linh Nhân Từ Phúc (Gia Lâm, Hà Nội) 1105. Vẫn hay đó căn bản là do công sức và tài khéo của nhân dân, thế nhưng tất cả phải có sự cho phép và hỗ trợ của nhà cầm quyền, mà người nắm quyền tối cao lại là người rất sùng đạo Phật là Thái Hậu Ỷ Lan.
Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu (1117), Thái Hậu Ỷ Lan mất, thọ trên 70 tuổi, được vua Nhân Tông dâng thụy hiệu là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu. Đền thờ chính của bà hiện ở Gia Lâm, Hà Nội. Ngôi chùa có tên là "Linh Nhân Từ Phúc Tự" (dân gian thường gọi là "chùa Bà Tấm"), được bà cho xây dựng vào năm 1115. Đến khi bà qua đời, ngôi đền thờ bà cũng được xây dựng tại đây. Từ đó đến nay, cụm đền chùa này là nơi thờ Phật, và cũng là nơi tưởng niệm bà.
Đến đây, có thể nói rằng, dù trong sự nghiệp của bà đã có một vết đen và vụ bức tử Thượng Dương và hơn 70 cung nữ, thế nhưng dân gian vẫn xem bà như “Quan Âm tái thế”, hay là “Cô Tấm” trong truyện cổ tích. Huống chi câu chuyện bức tử nói trên chỉ được sử sách chép lại có mấy dòng, hoàn toàn không nói rõ bối cảnh và nguyên nhân sâu xa thật sự của vụ việc. Thái Hậu Ỷ Lan xuất thân chỉ là một thôn nữ nhà nghèo mà lại tự rèn luyện có được một kiến thức hết sức uyên thâm, đó là một tấm gương tự học lớn. Bà không chỉ giỏi việc nước, mà còn đảm việc nhà khi đã đào tạo cho vạn dân một vị minh quân như vua Lý Nhân Tông.
Bài học lớn nhất rút ra từ sự nghiệp chính trị của Thái Hậu Ỷ Lan có lẽ là việc : Vì lợi ích chung, bà đã biết gác lại hiềm khích cá nhân để huy động mọi lực lượng có thể nhằm chống kẻ thù xâm lược. Khi giặc Tống xâm lăng, vua Nhân Tông chỉ mới lên 10 tuổi, Thái Hậu Ỷ Lan phải thay vua lãnh đạo quân dân chiến đấu chống kẻ thù.
Bà đã gác lại tư thù để dùng người có thực tài như Lý Đạo Thành làm Bình Chương Quân Quốc lo chuyện nội chính. Chiến công hiển hách của Lý Thường Kiệt ngoài mặt trận sẽ không thể có được nếu như không có một hậu phương vững chắc và thống nhất, mà cái hậu phương vững chắc và thống nhất đó đã có được nhờ vào tài điều hành của Thái Hậu Ỷ Lan và tài trị nước của ông Lý Đạo Thành.
Ai dám nghĩ một cô gái hái dâu quê mùa mà có được cái tài chính trị đến như vậy? Cái tài chính trị đó có thể tóm lược qua câu trả lời của bà khi được vua Thánh Tông hỏi về việc trị quốc, được sử cũ chép lại như sau: “Muốn nước giàu dân mạnh, điều quan trọng là phải biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng khó uống nhưng chữa được bệnh”.
Tài năng đó, đức độ đó đã góp phần khẳng định bản lĩnh của phụ nữ Việt nam, đã đưa Thái Hậu Ỷ Lan vào hàng ngũ những nhà lãnh đạo chính trị kiệt xuất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, và đặc biệt là đã để lại cho hậu thế một bài học quý giá về việc biết sử dụng hiền tài, và khi cần thiết thì biết gác lại hiềm khích riêng tư để phục vụ cho lợi ích chung của đất nước. 

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

ĐỜI LUẬN ANH HÙNG: "THÁI HẬU DƯƠNG VÂN NGA"


Nguồn : Từ tạp chí văn hóa đài RFI
Tạp chí văn hoá
(15:25)

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, các nhân vật nữ không được nhắc đến nhiều như các đàn ông. Đấy không phải là vì phụ nữ nước ta kém tài, mà vì họ luôn bị ràng buộc trong cái lễ giáo trọng nam khinh nữ của các vương triều phong kiến.
Thế nhưng, đến với Lưỡng triều Hoàng hậu Dương Vân Nga thì lại khác. Bà là hoàng hậu của hai Triều Đinh và Lê. Bà là người từng có quyết định ảnh hưởng đến cả vận mệnh dân tộc. Và cũng là người hứng chịu búa rìu của cái việc “đời luận anh hùng”.

Dương Vân Nga là một nhân vật lớn trong lịch sử Việt Nam. Thế mà, ngay chính bà cũng không thoát được cái vòng “trọng nam khinh nữ” của các sử gia phong kiến. Các bộ sử lớn như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục nhà Nguyễn không hề dành phần riêng nói rõ về thân thế của bà như trường hợp những nhân vật nam khác. Đến thời đương đại này, các sử gia mới ra sức tìm hiểu nguồn gốc xuất thân của bà. Nhưng kết quả thu được chẳng có bao nhiêu bởi sử cũ không chép lại thì thế hệ hiện tại lấy gì mà tra khảo.
Xuất thân của Dương Vân Nga
Trong thực tế đó, xuất thân của Dương Vân Nga vẫn còn là đều bàn cãi. Bà có lẽ là người của vùng đất Hoa Lư, Ninh Bình. Sử cũ chỉ ghi bà họ Dương, còn tên thì hiện có hai thuyết: Dương Vân Nga và Dương Ngọc Vân. Tuy nhiên, theo như tên ghi ở Đền thờ Vua Lê Đại Hành ở Hoa Lư, thì bà tên là Dương Vân Nga.
Có người cho rằng, cái tên Dương Vân Nga được phổ biến trong dân gian và nhờ vào các vở cải lương nói về Dương Vân Nga. Thế nhưng, xét thấy ngôi đền nói trên được xây dựng cách đây trên dưới 300 năm, còn cải lương thì chưa được 100 tuổi, bởi vậy cái tên Dương Vân Nga ất phải có trước cải lương. Hơn nữa, người Việt Nam đã quá quen với cái tên Dương Vân Nga, các sử gia khi đề cập đến bà cũng hay dùng tên Dương Vân Nga. Bởi vậy, ở đây xin được dùng cái tên quen thuộc là Dương Vân Nga.
Quê quán của Dương Vân Nga hiện cũng chưa rõ lắm. Có người nói ở Ninh Bình, có người lại bảo là Thanh Hóa. Năm sinh của bà hiện vẫn là một ẩn số. Sử cũ chỉ chép rõ ràng năm mất của bà là năm 1000. Nhiều sử gia ước đoán bà thọ khoảng từ 55-60 tuổi. Như vậy, năm sinh của bà có thể là trong giai đoạn 940-945.
Nhường ngôi cho người ngoại tộc
Các chi tiết liên quan đến nguồn gốc xuất thân của Dương Vân Nga còn khá mù mờ, nhưng trái lại sự kiện bà nhường ngôi nhà Đinh vào tay Lê Hoàn và là hoàng hậu của hai Triều Đinh-Lê thì các bộ sử đều chép rõ với những lời khen chê khác nhau.
Về việc Dương Vân Nga nhường ngôi cho Lê Hoàn, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục đều chép:
“Bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cư Lạng làm đại tướng quân. Khi (triều đình) đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người rằng: " Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ (mới 6 tuổi-LP), chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lâp ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn".Quân sĩ nghe vậy đều hô "vạn tuế ". Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu (980), giáng phong vua (Đinh Toàn-LP) làm Vệ Vương”.
Sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim hồi đầu thế kỷ 20 cũng chép lại sự việc như trên. Trần Trọng Kim cũng nhấn mạnh đến sự kiện sau đây:
“Vệ Vương mới có 6 tuổi lên làm vua, quyền chính ở cả Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, Lê Hoàn lại cùng với Dương Thái Hậu tư thông. Các quan đại thần bấy giờ là bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy Lê Hoàn nhiếp chính lộng quyền quá, mới cử binh mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết cả”.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lời nhận xét của sử thần Ngô Sĩ Liên như sau:
“Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: Tam cương là đạo thường của muôn đời, không thể một ngày rối loạn. Khi Đại Hành giữ chức nhiếp chính, Vệ Vương tuy còn nhỏ nhưng vẫn là vua, thế mà Đại Hành tự xưng là Phó Vương, rắp tâm làm điều bất lợi. Đạo làm tôi không được rắp tâm, rắp tâm thì ắt phải giết. Đó là phép của sách Xuân Thu, người người điều được nêu lên mà thi hành. Nguyễn Bặc, Đinh Điền sao có thể nhẫn tâm điềm nhiên mà nhìn ? Rồi lui về dấy quân hỏi tội, mưu giữ xã tắc, thế là bầy tôi trung nghĩa đấy. Việc không xong mà chết, thế là bề tôi tử tiết đấy”.
Khâm Định nhà Nguyễn thì tỏ ra nghi ngờ về việc mọi người cùng nhau suy tôn Lê Hoàn lên ngôi, khi có giọng mỉa mai rằng:
“Bờ cõi Bắc Nam tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê thì có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện với bên Tống thế! Hay là người làm sử thấy thế, gò ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời kia có ý làm ra như thế đâu?”.
Lưỡng Triều Hoàng hậu
Khi ở ngôi, vua Đinh Tiên Hoàng lập đến 5 Hoàng hậu, Dương Vân Nga là một trong số 5 Hoàng hậu đó. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn theo điển của vua Đinh mà lập đến 5 người làm Hoàng hậu. Tuy nhiên, điều nhạy cảm là Lê Hoàn lại phong cho Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh Hoàng Hậu, tức tên hiệu của vua Đinh Tiên Hoàng.
Theo Nho Giáo mà nói, thì rõ ràng là việc lấy vợ của vua trước là điều đáng phê phán. Bởi vậy mà Đại Việt Sử Ký toàn thư chép lời bàn nặng nề như sau:
“Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chổ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn. Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đàu mối họa đó sao?”
Khâm Định nhà Nguyễn thì chép lời bàn:
“Đại thắng minh là tên hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Đại Hành lấy hiệu vua cũ đặt cho vợ mình: Thật là không còn kiêng nể chút gì cả! Sử sách ghi chép, để cười nghìn thu”.
Đến việc năm 1001, Lê Hoàn mang quân đi đánh Cử Long: Vệ vương Đinh Toàn đi theo. Sử cũ chép : « Bấy giờ quân giặc thấy nhà vua, chúng giương cung, chĩa tên, toan bắn, chiếc tên rơi xuống; chúng lại giương cung, dây cung đứt. Chúng sợ, rút lui. Nhà vua đi thuyền ven sông đuổi theo. Quân giặc ở hai bên bờ đánh khép lại. Quan quân bị hãm ở sông. Vệ vương Toàn trúng phải mũi tên bay, mất tại trận. Nhà vua kêu trời ba tiếng, rồi thân ra đốc chiến: quân giặc thua”.
Đinh Toàn là chúa cũ của Lê Hoàn, nhưng khi nhường ngôi cho Lê Hoàn đã bị giáng xuống làm Vệ Vương. Về sự việc Đinh Toàn mất nói trên, Khâm Định nhà Nguyễn chép lời phê như sau:
“ Lê Hoàn lợi dụng cơ hội, đã cướp lấy nước người ta, lại không khéo đối đãi chúa cũ, đẩy vào chỗ chết, thế nào mà Toàn chẳng đến tử vong? Còn việc cất tiếng kêu trời, gieo mình xuống đất, chỉ là một ngón giả trá. Thật khó che đậy được công luận nghìn thu”.
Ta thấy các sử gia phong kiến luôn có thái độ phản đối việc Dương Vân Nga nhường ngôi cho Lê Hoàn, nên mới có những lời nặng nề như vậy.
Quyết định cứu nguy cho toàn dân tộc
Việc Dương Vân Nga nhường ngôi nhà Đinh cho Lê Hoàn lợi hại thế nào ? Để trả lời cho câu hỏi này, ta cần xem xét bối cảnh lịch sử của sự kiện này.
Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vào năm 968, lấy hiệu Đinh Tiên Hoàng. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con trai là Đinh Liễn bị gian thần Đỗ Thích giết hại. Con trai nhỏ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn được tôn lên ngôi khi mới 6 tuổi. Lê Hoàn được nắm quyền nhiếp chính, chỉ huy quân đội của cả nước và tự xưng là Phó vương. Các đại thần nhà Đinh như Đinh Điền và Nguyễn Bặc bất mãn với điều đó nên phát binh làm phản và bị Lê Hoàn đánh dẹp. Bên ngoài thì nhà Tống phát binh đánh xuống, toan chiếm nước Đại Cồ Việt.
Trong bối cảnh nền độc lập quốc gia bị đe dọa như vậy, Dương Vân Nga với tư cách là Thái hậu nhiếp chính đã quyết định tôn Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế.
Lịch sử đã chứng minh, đây là một quyết định sáng suốt, có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Khi quân Tống tràn sang xâm lấn, vua Đinh Toàn chỉ là cậu bé 6 tuổi, trong khi Dương Vân Nga thì dù sao cũng là đàn bà nên không thể vùng vẫy trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ như xưa kia được. Các tướng có tài từng sát cánh Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc thì đã nổi loạn chống Lê Hoàn và đã bị giết. Lê Hoàn lại nắm trong tay đến 10 đạo quân, và như sử sách đã chép là ông rất được lòng quân. Ông lại là tướng có tài. Sau khi lên ngôi hoàng đế, Lê Hoàn đã thân chinh đánh lui quân Tống phía Bắc, bình quân Chiêm ở miền Nam, cứu lấy giang sang Đại Cồ Việt.
Có phải chỉ một mình Dương Vân Nga muốn tôn Lê Hoàng lên làm vua còn bá quan và quân sĩ thì không muốn ? Nếu quả thật chỉ một mình Dương Vân Nga muốn điều đó thì bà cũng không thể tự tiện quyết định việc nhường ngôi nhà Đinh cho người ngoại tộc, bởi chuyện nhường ngai vàng đâu phải là chuyện nhỏ, bởi còn đó bá quan văn võ nhà Đinh, còn đó gia tộc họ Đinh. Như câu chuyện đã kể bên trên về sự nhường ngôi, thì dù chỉ trích hành động này, nhưng hai Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê và Khâm Định nhà Nguyễn cũng phải ghi nhận rằng : « Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế ».
Một điểm cần nhấn mạnh nữa là, việc Lê Hoàn lên ngôi phải hợp lòng quân và lòng dân lúc ấy. Bằng chứng là ông đã chỉ huy quân dân đánh thắng quân xâm lược phương Bắc. Nếu Lê Hoàn không được sử ủng hộ của ba quân và của nhân dân, thì ông lấy đâu đủ sức mạnh mà chiến đấu chống lại một kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần. Lịch sử đã chứng minh rằng, trong bất kì cuộc chiến chống ngoại xâm nào của Việt Nam, nếu không được lòng dân và lòng quân, thì tự nhiên sẽ thất bại, như trường hợp của Nhà Hồ của Hồ Quý Ly khi cướp ngôi nhà Lê dẫn đến chỗ trong nước « chính sự phiền hà » để trong nước « lòng dân rối loạn », và để đất nước rơi vào tay của giặc Minh.
Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã tỏ ra là một minh quân. Nếu trong sự nghiệp chống ngoại xâm, ông nổi tiếng với các chiến công « Phá Tống, Bình Chiêm », thì việc nội trị ông cũng là người tài giỏi. Chính ông khởi đầu cho Lễ tịch điền, tức lễ mà vua đích thân xuống cầm cày, một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến khích phát triển nông nghiệp. Lê Hoàn cũng là vị vua mở đường cho công cuộc đào kênh rạch khai thông đường thủy và lấy nước phục vụ nông nghiệp.
Về ngoại giao, Lê Hoàn đã có chính sách ngoại giao mềm dẽo khôn khéo. Sử cũ đã ghi lại việc Lê Hoàn nhận chiếu nhà Tống mà không quỳ lạy, sứ Tống cũng phải lơ đi. Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhà vua còn bố trí cho sư Pháp Thuận giả làm người chèo đò ra đón sứ giả Lý Giác. Câu chuyện hai người đã mượn bài thư Vịnh ngỗng của Lạc Tân Vương đời Đường để nối vần đối đáp với nhau nhân có hai con ngỗng bơi trên mặt sông, đã khiến Lý Giác rất thích thú và bị chinh phục, đã trở thành giai thoại thú vị trong lịch sử bang giao và văn học. Sau đó, về Lý Giác đã làm một bài thư gửi tặng ngỏ ý “tôn Lê Hoàn không khác gì vua Tống”.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận định:
« Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy ».
Sử gia Lê Văn Hưu, dù phê phán việc Lê Hoàn lên ngôi, cũng phải thừa nhận tài năng của Lê Hoàn :
« Đại Hành Giết Đinh Điền, bằt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện , Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được ».
Phan Huy Chú trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí đã nhận định :
“Sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng, tù trưởng sơn động hết chuyện làm phản. Thành Hoa Lư phồn vinh hơn cả nhà Đinh. Còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến chính sự của nước, chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh. Tuyển lựa quân ngũ... có thể nói là hết sức siêng năng, hết lòng lo lắng”.
Ngay như Trần Trọng Kim là một sử gia rất sùng Nho, cũng thừa nhận những chiến công « phá Tống, bình Chiêm » của Lê Hoàn. Và cũng thừa nhận việc Lê Hoàn bình loạn đảng trong nước và ca ngợi : « Thanh thế vua Đại Hành lúc bấy giờ rất là lừng lẫy ».
Lê Hoàn phong cho Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh Hoàng hậu, việc này bị các sử gia phong kiến chê trách, cho là bất kính với vua trước là Đinh Tiên Hoàng, vì tên hiệu của Đinh Tiên Hoàng là Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Ta thấy, ở đây Lê Hoàn giữ lại tước hiệu cũ cho Dương Vân Nga. Không chỉ việc đó, khi lên ngôi, Lê Hoàn đã lấy niên hiệu là Thiên Phúc, mà Thiên Phúc lại chính là niên hiệu của Đinh Toàn, con trai của Đinh Tiên Hoàng, người tiền nhiệm của Lê Hoàn. Tại sao ở đây ta không cho rằng, Lê Hoàn có thái độ lưu luyến triều Đinh nên đã giữ lại những tên đó, và để khẳng định là ông lên ngôi là vì tình thế ép buộc, là vì vận mệnh xã tắc ? Những chiến công chống ngoại xâm, bình nội loạn, xây dựng kinh tế đã cho thấy Lê Hoàn thật sự là một ông vua vì nước. Sử gia đương đại Nguyễn Khắc Thuần trong Việt Sử Giai Thoại đã cho rằng :
« Đinh Tiên Hoàng mất, vua nối ngôi là Đinh Toàn chỉ mới được sáu tuổi, Lê Hoàn làm Phó Vương, giữ quyền nhiếp chính, ấy là vì sự thể lúc đó buộc phải làm như vậy. Sau, vận nước lâm nguy, xã tắc không thể phó thác cho Đinh Toàn bé nhỏ, chư tướng cùng Dương Thái hậu tôn Lê Hoàn lên ngôi, và Lê Hoàn đã vui nhận ý tôn lập đó, ấy cũng bởi sự thể lúc bấy giờ buộc phải làm như vậy đó thôi. Ai lên ngôi để hưởng cuộc đời nhung lụa, còn Lê Hoàn lên ngôi trước hết là để nhận lấy sứ mệnh vinh quang mà cực kì khó khăn, đó là chỉ huy cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lăng, bảo vệ nền tự chủ và thái bình cho xã tắc, kính thay ».
Không dùng ánh mắt riêng tư để nhìn chuyện muôn nhà
Đến đây ta có thể nói rằng, thái hậu Dương Vân Nga đã sáng suốt và có quyết định đúng đắn khi trao ngai vàng nhà Đinh lại cho Lê Hoàn. Đặt giả thuyết rằng những lời đồn đại về việc bà là người tình thuở hàn vi của Lê Hoàn, hay là bà đã tư thông với Lê Hoàn khi làm Thái hậu, là đúng, thì quyết định nhường ngai vàng của bà cũng vẫn là một quyết định lịch sử trọng đại, có lợi cho toàn đại cục lúc bấy giờ. Nhờ quyết định đó, mà nước Đại Cồ Việt đánh thắng ngoại xâm, dẹp được nội loạn, trở nên phồn thịnh. Nếu Dương Vân Nga lúc đó đặt lợi ích gia tộc lên trên lợi ích quốc gia, tức là khư khư giữ ngôi cho đứa con trai 6 tuổi của mình khi đất nước đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, thì vận mệnh đất nước sẽ ra sao ?
Đương nhiên, theo giáo điều Nho Giáo thì việc thay quyền đổi chủ như trên luôn bị phê phán. Bởi vậy mà các sử gia Nho Giáo đã không tiếc lời chỉ trích việc Lê Hoàn lấy ngôi nhà Đinh. Thế nhưng, cũng chính các sử gia này đã thừa nhận những chiến công « phá Tống, bình Chiêm » và việc xây dựng đất nước phồn thịnh của Lê Hoàn.
Xưa nay, cái việc « đời luận anh hùng » luôn lắm bề rối rắm, việc khen chê luôn rất khó phân biệt ai có lý hơn ai. Xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đến mức mà việc đánh giá anh hùng cũng phân làm hai loại : nam thì mới được gọi « anh hùng », còn nữ nhi thì phải gọi là « anh thư ». Thế nhưng, xin được gọi Dương Vân Nga là một «anh hùng », vì bà phải có đủ can đảm và sáng suốt để có được một quyết định đúng đắn mang tầm vóc lịch sử như vậy. Bà đã có cái nhìn lấy đại cục làm trọng. Bà đã không đem ánh mắt riêng tư để nhìn việc của muôn nhà.
Và cái chuyện « không đem ánh mắt riêng tư để nhìn việc của muôn nhà » của Thái hậu Dương Vân Nga quả là một bài học có giá trị ở mọi thời đại.

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

BÃO SỐ 10 năm 2013

     Mặc dù chưa phải là trung tâm bão, chỉ là ngoài rìa thôi nhưng cây cối đã đổ ngổn ngang. Ngay tại miếu Ông một cây tràm đã làm sập một đoạn thành. Cũng may những cây khác không đổ lên miếu và bình phong. Còn ở miếu Ngài Chánh Tiền Khai Khẩn một cây Xà cừ lớn đổ nằm gọn giữa sân, bên ngoài là Bình phong, bên trong là Miếu. Thật là may mắn, còn không chắc làng cũng mất hơn trăm triệu để tu sửa mà dân làng kỳ này cũng lắm khó khăn, liên tiếp hai vụ mất mùa rồi.

  Cây đổ đè lên la thành tại miếu Ông

 Những câu Bạchđàn và Tràm hoa vàng đổ nghiêng sát mái miếu Ông
 Tại đình làng

 Cây Xà cừ tại miếu Ngài Chánh tiền Khai Khẩn

 Cây Xà cừ nằm gọn giửa sân, phía ngoài là Bình phong, phía trong là Miếu


Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

VỠ BỜ XẢ CỬA

Chào mừng bạn đến vớiBlog Vĩnh Định Giang
 ( Hôm 14 tháng 8 năm Quý tỵ trời mưa to hồ cá của tịnh thất bị vỡ )

Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

TUỔI NHÂM THÌN

(Bài cũ tải lại)


               Thiên hạ ước mơ con tuổi Rồng
               Can nhâm mạng thuỷ chí tang bồng
               Long vân gặp hội làm quan lớn
               Gánh vác sơn hà dạ ước mong
                             ***
               Tớ cũng sinh ra đúng tuổi Rồng
              Tưởng rằng hoá kiếp trở thành Long
              Nào ngờ thân phận con giun đất
              Ngọ nguậy ngo ngoe mặt đất không
                            ***
              Bạn bè tuổi tớ cũng nhiều ông
              Văn võ song toàn bậc trí thông
              Rồng lượn không mây thời vận hạn
              Cũng thân rắn nước lội lòng vòng
                           ***
              Rồng rắn chi chi cũng thế thôi
              Vua quan có mả lại tuỳ thời
              U  ơ  ú  ớ  làm quan lớn
              Ú  ớ  u  ơ  lại nối ngôi
Chào mừng bạn đến vớiBlog Vĩnh Định Giang