Thứ Sáu, 22 tháng 12, 2017

ĐƯỜNG HIỆU, QUẬN HIỆU



Lâu nay thấy trên các bia hay khi nghe văn sớ các thầy cúng thường có các từ như : Trần lưu quận Nguyễn ...., An Định quận Hồ ... còn một số họ ít gặp thì không biết. Hôm vừa rồi có người hỏi họ Dương thuộc quận nào, ngay cả người thường viết văn sớ cũng không rõ. Về tra mạng có bài này đem về đây ai cần thì nghiên cứu .

ĐƯỜNG, QUẬN CỦA CÁC TỘC HỌ

Đường hiệu là danh xưng hay xưng hiệu của một Tổ đường nào đó, chủ yếu dùng để phân biệt dòng họ, tông tộc, hoặc gia tộc này với dòng họ, tông tộc hoặc gia tộc khác .

Có 3 nguồn gốc chính để tạo thành một tên gọi, danh xưng của Tổ đường cho một dòng tộc, đó là :
1. Địa danh (vùng đất phát nguyên hay phát tích của dòng họ) .
2. Điển cố (truyền thuyết hay sự việc có liên quan mật thiết đến vị Thuỷ tổ của dòng tộc) .
3. Lời giáo huấn của các vị tổ tiên
Đường hiệu cũng có thể gọi là Quận hiệu. Quận là nơi thiết lập khu vực hành chánh thời xưa , cũng là bổn nguyên phát tích của một dòng họ. Hậu thế lưu truyền vạn đại, lo sợ mất gốc, nên lập “Đường Hiệu” để nhận biết nhau. Sau đây là Đường Hiệu của một số tộc họ tiêu biểu.

ĐƯỜNG (QUẬN)                   TỘC HỌ
1. Tế Dương                          Đinh, Giang, Đào
2. Tây Hà                              Lâm
3. Hà Nam                             Phương, Chử, Khưu
4. Đông Lỗ                             Khổng
5. Nhạn Môn                          Văn, Điền, Đồng, Nông
6. Long Tây                            Lý, Bành
7. Thiên Thủy                         Doãn, Thái
8. Bình Dương                       Âu
9. Thái Nguyên                      Vương, Dương, Vũ, Chúc, Ôn
10. Cao Bình                          Phạm
11. Nam Dương                     Diệp, Đặng
12. Kinh Triệu                        Lê, Sử, Tống, Đỗ, Đoàn
13. Bột Hải                            Cao, Âu Dương
14. Nhữ Nam                         Chu
15. Trần Lưu                          Nguyễn, Tạ
16. An Định                            Hồ, Lương
17. Hà Đông                           Bùi
18. Diên Lăng                         Ngô
19. Bành Thành                      Lưu
20. Thanh Hà                         Trương
21. Vinh Dương                     Phan, Trịnh
22. Dĩnh Xuyên                      Trần
23. Phân Dương                    Quách
24. Giang Hạ                         Hoàng
25. Hoằng Nông                     Dương
26. Giải Lương                      Quan
27. Vũ Công                          Tô
28. Thủy Bình                        Ông



Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

CÁCH VÁI LẠY



Cách vái lạy đúng phong tục VN khi đi dự đám tang ?


Những thiếu sót với người sống thì còn châm trước được. Nhưng với người đã khuất, khi ta có gì sai sót, rất dễ được coi là "mất day". 

Bình thường thì ta cũng chẳng để ý mấy chuyện này làm gì, nhưng vừa qua nhà có tang, nên mới tá hoả ra là chẳng biết làm thế nào cho "đúng" và "chuẩn". Dù chỉ là một vài ngày ít ỏi, nhưng những nghi lễ, cử chỉ cũng cần có nguyên tắc - nguyên tắc dựa trên văn hoá và phong tục tập quán của mỗi vùng miền khác nhau. 

Vậy, để đảm bảo các hình thức thăm viếng được đúng và chuẩn, ít nhiều ta cũng nên xét lại.
1. Lạy là hành-động bày tỏ lòng tôn-kính chân-thành với tất-cả tâm-hồn và thể-xác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý-nghĩa khác nhau.

 - Thế Lạy Của Đàn Ông 
 Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ- phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy (xem phần Ý-Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra.

 Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi chuẩn-bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa-học và vững-vàng. Sở-dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng-bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn-bị đứng lên cũng vậy. Sở-dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững-vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.

 Thế lạy phủ-phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất và đồng-thời quì hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy đã tập-luyện hằng-ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh-thoảng quí cụ mới đi lễ chùa, phải cẩn-thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng-bằng.

 - Thế Lạy Của Đàn Bà 
 Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng-thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.

 Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.

 Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng-dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển-chuyển tha-thướt, tượng-trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều bất-tiện là khi mặc âu-phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao-niên còn áp-dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc-Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi.

 Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền-thống rất có ý-nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành-khẩn vừa trang-nghiêm trong lúc cúng tổ-tiên. Nếu muốn giữ phong-tục tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh-niên phải có lòng tự-nguyện. Muốn áp-dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập-dượt lâu mới nhuần-nhuyễn được. Nếu đã muốn thì mọi việc sẽ thành.

2. Vái thường được áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái.

Thông thường thì Lạy có 3 kiểu: lạy 2 lạy, lạy 3 lạy và lạy 4 lạy. Còn Vái (còn gọi là bái) thì chỉ thực hiện sau khi lạy và chỉ 2 vái mà thôi (cho dù có thực hiện 2, 3, hay 4 lạy cũng thế). 

3. Theo người Việt Nam, việc VÁI LẠY không chỉ dành cho khi khi đi dự đám tang, lạy khi cúng tế, lạy Phật ở chùa... mà Vái lạy còn dùng cho người sống nữa. Ngày xưa, chắc các bạn nghe từ "Lạy mẹ con đi lấy chồng", đọc thơ Nguyễn Du cũng thấy có việc lạy người sống đấy thôi. Ngày xưa ở miền Bắc (thời phong kiến) khi con dâu mới về nhà chồng đều phải lạy (còn gọi là "lễ") cha mẹ chồng. Hoặc khi làm lễ mừng thọ thì cũng có chuyện người sống lạy người sống đó thôi. 

4. Về cách lạy: người ta chỉ lạy 2 lạy dành cho người sống; lạy 3 lạy dành cho lạy Phật, lạy thần thánh (ví dụ khi cúng đất đai)và lạy 4 lạy để lạy vong (hồn người chết) 

5. Khi nhà nào đó có người qua đời thì người ta chỉ đi viếng (còn gọi là đi đám tang) sau khi đã nhập liệm (đã liệm người quá cố vào trong quan tài). Lúc đó mới có chuyện vái lạy. 

6. Quan niệm về lạy khi dự đám tang cũng có nguyên tắc của nó. Khi người quá cố còn đó (dù đã liệm trong quan tài) thì vẫn được xem như người còn sống nên để lạy đúng thì chỉ LẠY 2 lạy (và vái 2 vái). Một số gia đình có để bàn thờ Phật trước hương án có di ảnh người quá cố thì người đi đám lạy bàn thờ Phật 3 lạy (và 2 vái), sau đó lạy trước bàn hương án có di ảnh người quá cố 2 lạy (như lạy người sống). Nếu khi đến thắp hương cho người quá cố (đã được an táng rồi) thì lại lạy 4 lạy (và vái 3 vái). 

7. Việc đại diện gia đình (con, chồng/vợ, anh chị em... của người quá cố) lạy đáp lễ (lạy trả) người đi đám tang chỉ thực hiện khi quan tài người quá cố còn đang quàng tại nơi làm lễ (gia đình, nhà tang lễ...) chứ không thực hiện khi đã an táng xong người quá cố. Việc đáp lễ tức là thay mặt người quá cố đáp trả lễ của người đến viếng. Do đó, khi người đi viếng LẠY bao nhiêu LẠY thì phải đáp trả bấy nhiêu LẠY (không nhiều hơn, không ít hơn). Điều này không phải là "trả hết lễ" mà chỉ mang ý nghĩa "đáp lễ một cách đầy đủ". 

 III . Ý-Nghĩa của Lạy và Vái 
 Số lần lạy và vái đều mang một ý-nghĩa rất đặc-biệt. Sau đây chúng tôi xin trình-bày về ý-nghĩa của vái và lạy. Đây là phong-tục đặc-biệt của Việt Nam ta mà người Tàu không có tục-lệ này. Khi cúng, người Tàu chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi.

 a. Ý-Nghĩa Của 2 Lạy và 2 Vái
 Hai lạy dùng để áp-dụng cho người sống như trong trường-hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng-điếu, nếu là vai dưới của người quá-cố như em, con cháu, và những người vào hàng con em, v.v., ta nên lạy 2 lạy.

 Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý-nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính-cẩn, chứ không có ý-nghĩa nào khác. Nhưng trong trường- hợp người quá-cố còn để trong quan-tài tại nhà quàn, các người đến phúng- điếu, nếu là vai trên của người quá-cố như các bậc cao-niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá-cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan-tài đã được hạ-huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.

 Theo nguyên lý âm-dương, khi chưa chôn, người quá-cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng-trưng cho âm dương nhị khí hòa-hợp trên dương-thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.

 b. Ý-Nghĩa Của 3 Lạy và 3 Vái
 Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng-trưng cho Phật, Pháp, và Tăng (xin xem bài về “Nghĩa Đích Thực của Quy Y Tam Bảo” đã được phổ biến trước đây và sẽ được nhuận sắc và phổ biến). Phật ở đây là giác, tức là giác-ngộ, sáng-suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh-đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong-sạch, thanh-tịnh, không bợn-nhơ. Đây là nói về nguyên-tắc phải theo. Tuy-nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.

 Trong trường-hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu-phục, nếu cảm thấy khó-khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.

 c. Ý-Nghĩa Của 4 Lạy và 4 Vái
 Bốn lạy để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh-thần. Bốn lạy tượng-trưng cho tứ-thân phụ-mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao-gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú-ngụ.

 Bốn vái dùng để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp-dụng thế lạy.

 d.Ý-Nghĩa Của 5 Lạy và 5 Vái
 Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng-trưng cho ngũ-hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng-trưng cho trung-cung tức là hành-thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý-kiến cho rằng 5 lạy tượng-trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung-ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng-Vương, quí-vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng-Vương là vị vua khai-sáng giống nòi Việt. 

 Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp-dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì-giờ để mỗi người lạy 5 lạy.

Sưu tầm

Chủ Nhật, 19 tháng 3, 2017

ĐÁM CƯỚI CON GÁI ÚT ANH CẦM

Ngày 18/3/2017 nhằm ngày 21 tháng 2 năm Đinh dậu. Đi Tân Lập Hướng Hóa dự đám cưới con gái út anh Cầm, dưới đây là một số hình ảnh ghi lại để nhớ.











Video đại diện họ nhà nữ phát biểu .

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

HÌNH ẢNH XUÂN ĐINH DẬU

                                             
                                                            Đình Làng

                                                               Chùa
                                                        Miếu Ông
                                                                          Cháu nội
                                                             Đầu Xuân  Lân ghé nhà
                                          Cháu nội và cháu ngoại