Cách vái lạy đúng phong tục VN khi đi dự đám tang ?
Những
thiếu sót với người sống thì còn châm trước được. Nhưng với người đã khuất, khi
ta có gì sai sót, rất dễ được coi là "mất day".
Bình
thường thì ta cũng chẳng để ý mấy chuyện này làm gì, nhưng vừa qua nhà có tang,
nên mới tá hoả ra là chẳng biết làm thế nào cho "đúng" và
"chuẩn". Dù chỉ là một vài ngày ít ỏi, nhưng những nghi lễ, cử chỉ
cũng cần có nguyên tắc - nguyên tắc dựa trên văn hoá và phong tục tập quán của
mỗi vùng miền khác nhau.
Vậy,
để đảm bảo các hình thức thăm viếng được đúng và chuẩn, ít nhiều ta cũng nên
xét lại.
1. Lạy là hành-động bày
tỏ lòng tôn-kính chân-thành với tất-cả tâm-hồn và thể-xác đối với người trên
hay người quá-cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và
thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi
trường hợp đều có mang ý-nghĩa khác nhau.
-
Thế Lạy Của Đàn Ông
Thế
lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và
dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới
mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì
gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay
theo thế phủ- phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để
lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối
chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên
để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp
cho đủ số lạy (xem phần Ý-Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy xong thì vái ba vái
rồi lui ra.
Có
thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào
thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi
chuẩn-bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn
tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này
rất khoa-học và vững-vàng. Sở-dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường chân
phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng-bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn-bị đứng
lên cũng vậy. Sở-dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững-vàng là nhờ
chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
Thế
lạy phủ-phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay
chống xuống ngay mặt đất và đồng-thời quì hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy
các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên
đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy đã tập-luyện hằng-ngày mỗi khi cúng
Phật. Nếu thỉnh-thoảng quí cụ mới đi lễ chùa, phải cẩn-thận vì không lạy quen
mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng-bằng.
-
Thế Lạy Của Đàn Bà
Thế
lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía
trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì
kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để
che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao
lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần
chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên
hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế
ngồi thẳng lên đồng-thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu.
Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần Ý Nghĩa của Lạy
dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Cũng
có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu, để mông
lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp
đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp
xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày
trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.
Thế
lạy của đàn ông có vẻ hùng-dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có
tính cách uyển-chuyển tha-thướt, tượng-trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có
điều bất-tiện là khi mặc âu-phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị
cao-niên còn áp-dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc-Tổ. Còn
phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi.
Thế
lạy của đàn ông và đàn bà là truyền-thống rất có ý-nghĩa của người Việt ta. Nó
vừa thành-khẩn vừa trang-nghiêm trong lúc cúng tổ-tiên. Nếu muốn giữ phong-tục
tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh-niên phải có lòng tự-nguyện. Muốn áp-dụng thế
lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập-dượt lâu mới nhuần-nhuyễn được.
Nếu đã muốn thì mọi việc sẽ thành.
2. Vái thường được
áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở
trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên
ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay
xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp,
người ta vái 2,3,4, hay 5 vái.
Thông
thường thì Lạy có 3 kiểu: lạy 2 lạy, lạy 3 lạy và lạy 4 lạy. Còn Vái (còn gọi
là bái) thì chỉ thực hiện sau khi lạy và chỉ 2 vái mà thôi (cho dù có thực hiện
2, 3, hay 4 lạy cũng thế).
3. Theo người Việt Nam,
việc VÁI LẠY không chỉ dành cho khi khi đi dự đám tang, lạy khi cúng tế, lạy
Phật ở chùa... mà Vái lạy còn dùng cho người sống nữa. Ngày xưa, chắc các bạn
nghe từ "Lạy mẹ con đi lấy chồng", đọc thơ Nguyễn Du cũng thấy có
việc lạy người sống đấy thôi. Ngày xưa ở miền Bắc (thời phong kiến) khi con dâu
mới về nhà chồng đều phải lạy (còn gọi là "lễ") cha mẹ chồng. Hoặc
khi làm lễ mừng thọ thì cũng có chuyện người sống lạy người sống đó thôi.
4. Về cách lạy: người
ta chỉ lạy 2 lạy dành cho người sống; lạy 3 lạy dành cho lạy Phật, lạy thần
thánh (ví dụ khi cúng đất đai)và lạy 4 lạy để lạy vong (hồn người chết)
5. Khi nhà nào đó có người
qua đời thì người ta chỉ đi viếng (còn gọi là đi đám tang) sau khi đã nhập liệm
(đã liệm người quá cố vào trong quan tài). Lúc đó mới có chuyện vái lạy.
6. Quan niệm về lạy khi
dự đám tang cũng có nguyên tắc của nó. Khi người quá cố còn đó (dù đã liệm
trong quan tài) thì vẫn được xem như người còn sống nên để lạy đúng thì chỉ LẠY
2 lạy (và vái 2 vái). Một số gia đình có để bàn thờ Phật trước hương án có di
ảnh người quá cố thì người đi đám lạy bàn thờ Phật 3 lạy (và 2 vái), sau đó lạy
trước bàn hương án có di ảnh người quá cố 2 lạy (như lạy người sống). Nếu khi
đến thắp hương cho người quá cố (đã được an táng rồi) thì lại lạy 4 lạy (và vái
3 vái).
7. Việc đại diện gia đình (con, chồng/vợ, anh chị em... của
người quá cố) lạy đáp lễ (lạy trả) người đi đám tang chỉ thực hiện khi quan tài
người quá cố còn đang quàng tại nơi làm lễ (gia đình, nhà tang lễ...) chứ không
thực hiện khi đã an táng xong người quá cố. Việc đáp lễ tức là thay mặt người
quá cố đáp trả lễ của người đến viếng. Do đó,
khi người đi viếng LẠY bao nhiêu LẠY thì phải đáp trả bấy nhiêu LẠY (không
nhiều hơn, không ít hơn). Điều này không phải là "trả hết lễ" mà chỉ
mang ý nghĩa "đáp lễ một cách đầy đủ".
III
. Ý-Nghĩa của Lạy và Vái
Số
lần lạy và vái đều mang một ý-nghĩa rất đặc-biệt. Sau đây chúng tôi xin
trình-bày về ý-nghĩa của vái và lạy. Đây là phong-tục đặc-biệt của Việt Nam ta mà người
Tàu không có tục-lệ này. Khi cúng, người Tàu chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà
thôi.
a. Ý-Nghĩa Của 2 Lạy và 2 Vái
Hai
lạy dùng để áp-dụng cho người sống như trong trường-hợp cô dâu chú rể lạy cha
mẹ. Khi đi phúng-điếu, nếu là vai dưới của người quá-cố như em, con cháu, và
những người vào hàng con em, v.v., ta nên lạy 2 lạy.
Nếu
vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý-nghĩa của ba vái này, như đã
nói ở trên là lời chào kính-cẩn, chứ không có ý-nghĩa nào khác. Nhưng trong
trường- hợp người quá-cố còn để trong quan-tài tại nhà quàn, các người đến
phúng- điếu, nếu là vai trên của người quá-cố như các bậc cao-niên, hay những
người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá-cố, thì
chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan-tài đã được hạ-huyệt, tức là sau khi
chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.
Theo
nguyên lý âm-dương, khi chưa chôn, người quá-cố được coi như còn sống nên ta
lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng-trưng cho âm dương nhị khí hòa-hợp trên dương-thế,
tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
b. Ý-Nghĩa Của 3 Lạy và 3 Vái
Khi
đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng-trưng cho Phật, Pháp, và Tăng (xin xem
bài về “Nghĩa Đích Thực của Quy Y Tam Bảo” đã được phổ biến trước đây và sẽ
được nhuận sắc và phổ biến). Phật ở đây là giác, tức là giác-ngộ, sáng-suốt, và
thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh-đáng, trái với tà ngụy.
Tăng là tịnh, tức là trong-sạch, thanh-tịnh, không bợn-nhơ. Đây là nói về
nguyên-tắc phải theo. Tuy-nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người
ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong
trường-hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu-phục, nếu cảm thấy khó-khăn trong khi
lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
c. Ý-Nghĩa Của 4 Lạy và 4 Vái
Bốn
lạy để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh-thần. Bốn lạy tượng-trưng
cho tứ-thân phụ-mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc
dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu
Âm). Nói chung, bốn lạy bao-gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và
phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú-ngụ.
Bốn
vái dùng để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể
áp-dụng thế lạy.
d.Ý-Nghĩa Của 5 Lạy và 5 Vái
Ngày
xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng-trưng cho ngũ-hành (kim, mộc, thuỷ,
hỏa, và thổ), vua tượng-trưng cho trung-cung tức là hành-thổ màu vàng đứng ở
giữa. Còn có ý-kiến cho rằng 5 lạy tượng-trưng cho bốn phương (đông, tây, nam,
bắc) và trung-ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng-Vương,
quí-vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng-Vương là vị vua khai-sáng
giống nòi Việt.
Năm
vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp-dụng thế lạy vì quá đông người và không có
đủ thì-giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét