Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

LỄ KHÁNH THÀNH ĐÌNH LÀNG NGÔ XÁ TÂY

                                                  ( Ảnh mới chớp lại, do lúc đó chưa có máy ảnh)
Bài cũ tải lại

18:07 13 thg 5 2011Công khai17 Lượt xem 0
LỄ KHÁNH THÀNH ĐÌNH LÀNG NGÔ XÁ TÂY

     Gần cả tháng nay, ban điều hành tổ chức lễ tất bật cả ngày liền đêm. Lo toan mọi công việc từ in gửi thiệp mời, đặt các ban bệ từ công tác nghi lễ đến việc tiếp tân hậu cần, công việc ẩm thực, trang trí, âm thanh ánh sáng, vệ sinh môi trường vân vân và vân vân.
      Ngày vui đã đến . Kể từ ngày 09 tháng 5 năm 2011(07/04/Tân Mão), con dân làng ở xa quê, kẻ Bắc người Nam, người ở hải ngoại đã về đông đủ. Con cháu nội ngoại, dâu rễ đều phấn khởi vui mừng ngày trọng đại, một ngày có một không hai trong đời. Ngày khánh thành đình làng được xây dựng lại để thờ tự.Tất cả đình, chùa, miếu, các nhà thờ họ hương chông đèn rạng, dọc con đường dẫn đến đình làng cờ hội tung bay trong gió như đang vẫy chào những người con đã về với quê hương.
     Suốt cả đêm 09/5/2011 các nghi lễ theo truyền thống cổ truyền, trầm hương nghi ngút,tiếng chiêng trống hoà lẫn tiếng kèn trong đêm vắng như xé tan bầu không khí lan toả khắp cả làng quê, lắng đọng trong tâm khảm từng con dân làng, để rồi mai này những người xa quê còn nghe mãi, vọng mãi. Cụ hội chủ, tế chủ Nguyễn Quang Khản trong chiếc áo dài xanh hoa thọ, mủ đỏ. Các ông bồi bái áo xanh mủ xanh trông thật uy nghiêm. Mấy ông gia lễ nâng khay rượu cao hơn đầu nhẹ nhàng từng bước theo tiếng trống tiến linh
      Tờ mờ sáng hôm sau, ban lễ tân chuẩn bị đón tiếp con cháu nội ngoại dâu rễ. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, lệ trào trên khoé mắt vì xúc động. Họ quây quần theo từng nhóm, kể cho nhau nghe chuyện mới chuyện cũ, ôn lại những kỷ niệm của thời niên thiếu.Chuyện cùng nhau tắm mát trên dòng sông Vĩnh Định cứ mỗi chiều về khi đàn trâu đầm mình trong nước mát. Chuyện bắt cá, lấy tổ chim, những ngày giáp hạt. Rồi chuyện chiến tranh xẩy ra,người ở lại kẻ ra đi, kẻ còn người mất. Giờ gặp lại, trong họ không còn phân biệt ai lầm đường ai chính nghĩa. Chỉ còn là tình làng nghĩa xóm, những ký ức tuổi thơ của họ đẹp hơn gì hết.
      Mặc dù cảnh làng quê giờ đây đã đổi thay nhiều, nhưng họ không quên hình ảnh làng quê xưa. Từ cảnh cái “đập” có cây rừng nguyên sinh ngăn cách giửa hai làng Ngô Xá và Thanh Lê. Con đường “bàu” với những cây mưng đầy hoa nở soi mình dưới nước, nơi đây mục đồng tụ tập ngồi hóng mát năm xưa. Cái lô cốt cạnh cầu sông mới ngày ngày lớp trẻ  con làng ngồi nhồi đất sét nặn tò he. Giá như bây giờ còn tồn tại thì hay và đẹp biết mấy. Những luỹ tre làng xanh ngát có trâu nằm nấp bóng trưa hè, che chở dân làng trong những mùa mưa gió. Nhớ nồi cháo môn mẹ nấu với cua đồng trong những ngày ba tháng tám. Nhớ món cá mại kho với lá gừng. Tất cả và tất cả như những thước phim  đang hiện về trong họ.
     Ừ ! mà thế, chiến tranh đã lùi xa, hận thù không còn nữa. Tất cả cùng nhau chung tay xây dựng quê hương. Không những thế trước đây dù bên này hay bên kia trong họ vẫn canh cánh trong lòng về quê hương,   được thờ phụng các bậc tiên liệt, họ vẫn mong tổ tiên phò trì che chở những lúc hoạn nạn ốm đau, khi bom rơi đạn lạc, và thực sự họ đã được che chở. Mong mỏi của họ hôm nay đã thành hiện thực.
        Dù ở đâu trên đất nước hay ở hải ngoại họ vẫn hướng về tổ tiên không bao giờ quên nơi chôn nhau cắt rốn. Với tinh thần ly hương bất ly tổ, họ luôn thầm nghĩ “Quê hương nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi thành người”
         Đâu đó những bà, những chị tóc đã điểm sương ngồi kể chuyện ngày xưa cắt cỏ chăn trâu, chuyện ngày mùa đi cấy. Họ đang mơ về thời thôn nữ nô đùa vui hát dưới trăng. Những thiếu nữ vui cười hớn hở hỏi chuyện chồng con.
          Đúng 8 h, tổ chức lễ khánh thành. Ông trưởng thôn Hồ Văn Thành đọc sơ lược di tích đình làng, tất cả đều yên lặng lắng nghe,giọng của ông lúc trầm lúc bổng như chuyện làng quê thăng trầm theo dòng lịch sử.
           Thật là xúc động khi nghe bài phát biểu của ông Nguyễn Tịnh Bình đại diện người con xa quê, với nhiều tâm huyết, chắt lọc từng lời thấm thía từng câu.
          Đến 9 h lễ dâng hương. Chiêng trống khỉ lệnh, tuần tự các ban ngành, các làng, các cơ quan rồi con cháu tất cả đều trịnh trọng trang nghiêm.
            10h 30 tiệc trà, tiếng nói tiếng cười giòn giả, tiếng ly chạm nhau nghe chan chát, tiếng chúc mừng nhau thật thân thương. Điểm nổi bật của tiệc trà năm nay mà từ trước đến nay chưa bao giờ có, đó là toàn thể dân làng từ 18 tuổi trở lên cả nam lẫn nữ (trước đây đi dự lễ làng chỉ nam giới), dưới 18 tuổi và những người ốm đau già cả đều được phát tiền.
      Mọi công việc diễn theo như dự định và hoàn thành hết sức mỹ mãn. Ai nấy ra về trong lòng vui sướng vô biên, bắt tay nhau nắm tay nhau còn quyến luyến ngậm ngùi.                                                
 Nguyễn Anh 10/05/2011     

Lược trích : SƠ LƯỢC DI TÍCH ĐÌNH LÀNG 
     Trải qua hàng trăm năm, dân làng đã khai canh lập địa ở vùng đất này, qua nhiều năm thăng trầm của lịch sử, đối với làng Ngô Xá Tây xã Triệu Trung,ngược dòng lịch sử cách đây hơn 500 năm về trước các bậc tiền nhân đã quyết định chọn vùng đất này để khai canh,khai khẩn, an cư lạc nghiệp lâu dài, sinh hạ con cháu. Trải qua hàng trăm năm xây dựng và trưởng thành đến hôm nay đã có hơn 22 thế hệ con cháu nối tiếp nhau chung sức, chung lòng đoàn kết đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau xây dựng xóm làng, quê hương. Song song với việc xây dựng làng thì nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh từng bước được hình thành như xây dựng đình chùa, miếu vũ.
    Chính vì lẽ đó mà nhu cầu tâm linh của mỗi người dân làng được bà con hưởng ứng cao. Đình làng Ngô Xá Tây cũng được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng cho bà con dân làng.
   Quay trở lại với làng Ngô Xá hôm nay chúng ta ai cũng tự hào một vùng quê nghèo năm xưa giờ đã thay da đổi thịt. Làng được hình thành 500 năm về trước, 500 năm ấy quá dài nhưng không phải quá xa để mỗi người dân làng quên đi những bậc tiền nhân tiên liệt vào đây khai sinh lập địa ,500 năm thăng trầm của lịch sử, trong hoả hoạn thiên tai, trong lửa đạn chiến tranh hung tàn, nhưng mỗi người dân làng Ngô Tây luôn giử được tấm lòng thuỷ chung, nhân ái, đoàn kết, thương yêu, nhường cơm chia áo, cần cù chịu thương chịu khó, không sợ gian khổ, hy sinh , đó là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân làng.
    Mặc dầu trong thời khắc hết sức khó khăn, nhân dân vừa chịu thiên tai, trận rét kéo dài làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, đời sống một số bộ phận dân làng đã khó lại càng khó khăn thêm trong cuộc sống hàng ngày, nhưng ban điều hành làng tổ chức được lễ khánh thành Đình làng là một chuổi thời gian cố gắng, được sự đồng tình cao của nhân dân, cùng với sự giúp đỡ của bà con xa quê, người Nam, người Bắc, những con em của dân làng, người góp của, người góp công. Đặc biệt là sự quyết tâm cao của quý vị Tộc trưởng, các cụ cao niên, sự giúp đỡ tận tình của thôn, HTX, cùng các đoàn thể. Thay mặt ban điều hành tôi xin thành tâm cầu nguyện và chúc buổi lễ thành công tốt đẹp.
    Đây cũng là một dịp hiếm có để dân làng tập trung hội tụ, ân cần hỏi thăm, có dịp về thăm lại quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi hình thành cốt cách nhân phẩm, nơi tiếng mẹ ru hời, bên ướt mẹ nằm bên ráo con lăn. Trở lại với miền quê khói ấm lam chiều, đêm nghe tiếng chuông chùa ngân vọng, tiếng trống vang xa của họ làng mà ấm áp tình ruột thịt.
    Vào đầu thế kỷ XVI, các ngài (Chư vị Thỉ Tổ )của làng đã đưa dân vào vùng đất này cùng đồng canh đồng khẩn hình thành địa giới làng Ngô Xá ngày nay, một làng trải dài bên bờ sông Vĩnh Định. Làng có 18 xứ đồng. Các ngài đặt tên làng Ngu Xá ( ). Năm 1670 làng đã lập đình xây miếu dựng chùa và đặt lại tên làng Phước Xá ( ).Như vậy đình làng Ngô Xá đã hình thành cách đây 341 năm về trước. Đến năm 1811 vì tên làng phạm huý tên họ của các vua Triều Nguyễn ( Nguyễn Phước Tộc) nên đổi tên thành Ngô xá ( )( trong chữ Hán bỏ đầu của chữ Ngu thành chữ Ngô). Làng có 14 họ, hiện nay có 3 họ vô tự không có người hương khói được phụng thờ ở chùa.
      Tự hào nhất đối với dân làng được vua Duy Tân niên hiệu năm thứ 7 và vua Khải Định năm thứ 9 đã ban chiếu sắc truy tặng Ngài Nguyễn Quang Đại Lang ( huý Nguyễn Quang Thắng) CHÍNH  TIỀN  KHAI KHẨN (sắc phong hiện còn lưu giử ở nhà thờ họ Nguyễn Quang). Ngài Hồ Đại Lang, Ngài Huỳnh Đại Lang khai khẩn cùng với các Ngài Hồ Ông Lình, Ngài Nguyễn Công Xân, Hồ Kim Bảng, Nguyễn Thiết Thạch, Nguyễn Văn Lang, Lê Văn Tới, Hoàng Văn Duy, Nguyễn Hữu Vạn, Nguyễn Tham Nang, Trần Văn Lang, Phạm Ông Bịp chiêu mộ một số con dân gồm 121 hộ từ đất Nghệ Tỉnh vào khai sinh lập nghiệp.
     Cùng với lịch sử chống giặc ngoại xâm của đất nước dân tộc. Dân làng phấn khởi với truyền thống đánh giặc của Ngài Nguyễn Công Đặng. Đặc tấn phụ quốc- thượng tướng quân cẩm y vệ - đô chỉ huy sứ-tư đô chỉ huy sứ Ai Lao dinh cai đội Đặng tài hầu hiển nhơn Nguyễn Quý Công tôn thần (theo văn tế ở miếu Ngài). Các Ngài cai tri phó tướng Hoàng Trung Hầu, Ngài Chưởng nội thái giám đốc quận công, Ngài Tham Nghị Hựu thừa chính nghị cùng các Ngài Nguyễn Văn Sử, Hồ Văn Cuốn, Nguyễn Quang Tờn, Nguyễn Công Tích, Hoàng Văn Cang và các Ngài Võ lâm dinh làm trong nội các chính sự trong các triều đại nhà Nguyễn.
     Từ một vùng quê nghèo khó, đại đa số dân cuộc sống còn chật vật, nhưng luôn luôn kính trọng các bậc liệt tổ liệt tông. Con em dù lao động học tập hay công tác ở nơi đâu, dù có ly hương nhưng chưa bao giờ ly tổ luôn luôn nghỉ về quê hương về quê cha đất tổ. Đình làng là nơi mái ấm của tổ tiên ông bà cũng là nơi hàng năm dân làng hội tụ về đây để mừng tuổi ông bà, đồng thời gặp mặt đầu năm của các bậc cao niên cũng như con cháu của làng. Mỏi mòn theo năm tháng, đình làng xuống cấp. Năm 1961( nămTân Sửu) trong hoàn cảnh khó khăn nhưng dân làng đã hạ quyết tâm trùng tu sửa chữa lại đình làng, đến nay cũng đã hơn 50 năm, các hạng mục đình làng đã xuống cấp trầm trọng.
       Trước tình hình như vậy, toàn dân làng đồng tâm hiệp lực người góp của kẻ góp công để xây dựng lại đình làng.với các hạng mục sau:
- Xây mới toàn bộ, nâng cao nền, mái lợp ngói Hạ Long, liệt gỗ kiền
 - Nâng phần miếu phía sau, láng sân
- Sơn tít sửa lại hệ thống tường rào
Tổng kinh phí 316.000.000 trong đó vốn tự có là 230.000.000, con dân ủng hộ 98.300.000
         Đình làng đã khởi công xây dựng từ ngày 10 tháng 7 năm 2010 nhằm ngày 29 tháng 6 năm Canh Dần.Làm lễ khánh thành ngày 09 và 10 tháng 5 năm 2011( nhằm ngày 07 và 08 tháng 4 năm Tân Mão).
      Đình làng với kiểu dáng cổ truyền nhà bốn mái ba căn
Phần miếu thờ Ngài Dương Cảnh Thần Hoàng Duệ Đạt Đại Vương
Căn chính diện thờ : Chư Thần hội diện
Căn tả thờ : Thiên khai tiền hậu thánh thánh vật tiên sư
Căn hữu thờ : Thổ công táo quân.
Có được thành công hôm nay cũng nhờ sự quyết tâm của toàn dân, của các bậc hào lão, quý vị tộc trưởng.
 Cụ :Nguyễn Quang Khản : hội chủ làng
 Cụ :Nguyễn Văn Hoạt      : Người cao niên của làng
Các Ông : Nguyễn Quang Kiểu, Hồ Văn Đỉu, Nguyễn Công Du, Nguyễn Văn Dũng, Hồ Văn Thành trong ban kiến thiết.
Các ông : Nguyễn Quang Chính, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Văn Chiêu trong ban giám sát. Ông Hồ Văn Trường trong ban thư ký kế toán. Ngoài ra còn có sự đóng góp công sức của các ông: Nguyễn Văn Cần, Hồ Văn Ứng, Hồ Văn Mừng, Nguyễn Văn Sao. 

Nguyên văn bài phát biểu của ông Nguyễn Tịnh Bình người con xa quê 
(Nghi thức :Lạy trước bàn thờ tổ tiên) 
Kính thưa ngài hội chủ làng
Kính thưa quý vị tộc trưởng
Kính thưa quý vị hào lão
Cùng toàn thể bà con dân làng 
     Tôi xin mạn phép thay mặt cho những con dân làng Ngô Xá Tây xa quê ở trong nước cũng như ở nước ngoài, trước hết xin cung kính ngưỡng bái chư vị Thành hoàng- Long thần thổ địa bổn xứ với lòng thành kính vô biên.Xin gửi đến các bậc tôn trưởng và toàn thể bà con dân làng lời chúc sức khoẻ và lời chào kính trọng
         Kính thưa quý vị
Hàng năm, chúng tôi có về thăm quê, đã thấy được sự phát triển của thôn xóm,nhưng đặc biệt năm nay chứng kiến một sự kiện lớn đó là làng đã hoàn thành ngôi đình khang trang và hoành tráng mà hôm nay tiến hành mở hội khánh thành. Trong dịp này chúng tôi xin chân thành tri ân ban lãnh đạo và dân làng, mặc dù cuộc sống đang gặp nhiều khó khăn nhưng đã đồng tâm hiệp lực để kiến tạo nên ngôi đình hoành tráng và bề thế như thế này.
Kính thưa liệt vị
     Những con dân làng xa quê trong những hoàn cảnh khác nhau,nhưng phần đông là sau 1975, vì lẽ sống cho nên bà con phải gạt nước mắt, từ giả bà con thân thuộc, từ giả nơi chôn nhau cắt rốn để lên đường đến những nơi xa lạ mưu sinh và lập nghiệp. Nhưng dù ở bất cứ nơi đâu, với bản tính cần cù, chịu thương chịu khó nên bà con đã hoà nhập với hoàn cảnh cuộc sống nơi mình đến. Do vậy, hôm nay hầu hết bà con đã có cuộc sống ổn định, con cháu học hành thành đạt. Có những nơi bà con đã lập đền thờ Thành Hoàng và hàng năm có tổ chức tế tự chu đáo. Sự việc đó đã nói lên được tinh thần ly hương mà không ly tổ của bà con và luôn nhớ về nơi quê cha đất tổ với niềm khao khát tình cảm xóm làng.
      Chúng tôi thiết nghĩ, mái chùa mái đình là nơi che chở dân làng, dù ở bất cứ nơi đâu và tin tưởng rằng chư vị Thành Hoàng vẫn luôn luôn thương tưởng và che chở cho con dân của Ngài dù bất cứ nơi nào.
       Trong dịp này, chúng tôi cũng mong mỏi những bà con xa quê chưa một lần trở về thì xin quý vị hãy nhanh chân về đây, trước là để thăm quê hương xứ sở sau là để làm một nhịp cầu nối các thế hệ con cháu của quý vị với quê hương của chúng, chứ đừng để các con cháu trở thành những kẻ mất gốc. Xin đừng ngần ngại, đừng mặc cảm, hãy về đây bởi vì :“quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người. ”
         Cuối cùng kính chúc các bậc Tôn trưởng và toàn thể bà con dân làng mạnh khoẻ và hạnh phúc
           Trân trọng kính chào và kính cám ơn

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

LÀNG NGÔ XÁ


NGÔ XÁ  ( )
Đầu làng
   
Là dân làng Ngô Xá nhưng có lần có anh bạn hỏi tôi gốc tích thế nào về làng  Ngô Xá. Thực sự tôi chẳng rõ. Một số làng lấy tên Họ tộc lớn đặt tên làng như : Mai Xá, Văn Xá... Nhưng làng tôi không có họ Ngô.Câu hỏi còn vấn vương mãi trong tôi.Trong đợt Làng văn hoá có bài viết tiểu sử làng nhưng tôi thấy còn mơ hồ .
     Vừa rồi, tôi đã gặp một thông nho gần đất xa trời còn sót lại của làng nhưng trí tuệ còn minh mẫn ngoài suy nghĩ của tôi . Đó là cụ NGUYỄN VĂN HOẠT
      Sách vở của cụ còn ghi chép đầy đủ, cụ đã từng viết văn sớ cho làng trong những lễ tế thần, đọc và dịch các tư liệu của làng do Tổ tiên để lại. Sau khi tìm hiểu thực sự tôi không biết chữ Hán nhưng những gì cụ viết ra tôi về tra cứu lại tự điển thấy chính xác. Sau đây là lược trích những gì từ tư liệu của cụ: 
( Trích tư liệu của làng – Bài do ông NGUYỄN VĂN HOẠT viết)

        Truy nguyên tiểu sử, năm hiệu HỒNG ĐỨC  di dân vào Nam khai thác sự nghiệp(Lê Thánh Tôn). Lúc bấy giờ năm 1537 về sau, nhà hậu Lê nhược yếu giữa giao tranh Chúa Nguyễn ,Chúa Trịnh, nhà Mạc,Tây Sơn .Lúc đó các Ngài ở Nghệ Tỉnh ( nay Chư vị Thỉ Tổ làng) đi vào cùng nhau đồng cư, đồng canh khẩn thành địa giới : Phía nam dọc sông Vĩnh Định ; thượng tự hà đầu cầu giáp Thâm Triều;chí tà chuyển xứ cầu Xuân dương; ba châu thổ giáp hà La Duy ; đông bắc giáp thâm điền Mỹ Khê, Đồng Bào, Trung An ; tây bắc giáp Đạo Đầu, Thanh Lê, đồng Trà Trì,An Trú.Gồm có 18 xứ đồng: Đạc Hói, Cồn Cát, Cồn Lừa, Cồn Bội, Mộ súng,Cồn Hói, Cồn Lệch,Cồn Bội, Khúc Đá, Đồng Gò, Đồng Cựa, Đạc Bàu, Cồn Miếu, Cồn kềng, Cồn Cương, Bàu quân, Cồn Dương, Mộ địa(8 khoảnh).    
Tự canh tự trưng chỉ có dạ bộ thuế lệ thời đó thôi. Đặt tên làng là NGU XÁ, qua năm 1665 lập kiến canh châu bộ,thiết lập tôn miếu, đình,chùa. Tên làng chữ không tốt xin đổi lại là PHƯỚC XÁ,về sau niên hiệu GIA LONG năm 1811 toản tu địa bộ toàn công không được tự canh,(tên làng phạm huý) đổi lại là NGÔ XÁ .(Lấy tự tích chữ Ngu bỏ tên đầu thành chữ Ngô) .
虞 舍: Ngu xá ;     : Ngô xá
Dân làng gồm có 14 họ:
1.     Họ Nguyễn Quang
2.     Họ Hồ Văn
3.     Họ Hoàng
4.     Họ Hồ Văn
5.     Họ Nguyễn Công
6.     Họ Lê Văn
7.     Họ Nguyễn Đình Văn
8.     Họ Nguyễn Hữu
9.     Họ Nguyễn Tham
10.             Họ Phạm
11.             Họ Nguyễn Văn
12.             Họ Nguyễn Văn
13.             Họ Nguyễn Chơn
14.              Họ Trần  
Lúc đó ,dân làng càng ngày càng đông,khó bề trị an đồng tình xin phân chia thành hai làng: Ngô Xá Tây giáp và Ngô Xá Đông giáp.
Làng Ngô Xá Tây gồm các họ:
1.     Họ Nguyễn Quang
2.     Họ Hồ Văn
3.     Họ Hoàng
4.     Họ Hồ văn
5.     Họ Nguyễn Công
6.     Họ Nguyễn Đình Văn
7.     Họ Nguyễn Hữu
8.     Họ Nguyễn Tham
9.     Họ Phạm
10.   Họ Nguyễn Văn
( Ba họ : Nguyễn Hữu, Nguyễn Tham và họ Phạm nay không còn nữa)
Làng Ngô Xá Đông gồm các họ:
1.     Họ Nguyễn Chơn
2.     Họ Nguyễn Văn
3.     Họ Lê Văn
4.     Họ Trần
 Sau năm 1812 hội đồng dân làng Ngô Xá Tây giáp tái lập lại đình, chùa, miếu vũ thờ các vị tiền công tại địa chỉ bây giờ, chiều một hướng tây,trước gia cư dân làng.
Đình làng rộng rải trồng cây bóng mát, phong cảnh thâm nghiêm. Hàng năm tổ chức các lễ hội truyền thống và làm nơi hội họp của dân làng. Hàng năm vào ngày 17 tháng 2 âm lịch huý kỵ ngài chính tiền khai khẩn NGUYỄN QUANG ĐẠI LANG ( huý NGUYỄN QUANG THẮNG), dân làng đi tảo mộ. Ngày 9 và 10 tháng 4 âm lịch làng tổ chức kỵ ngài ĐẶC TẤN PHỤ QUỐC-THƯỢNG TƯỚNG QUÂN CẨM Y VỆ -ĐÔ CHỈ HUY SỨ-TƯ ĐÔ CHỈ HUY SỨ AI LAO DINH CAI ĐỘI ĐĂNG TÀI HẦU HIỂN NHƠN NGUYỄN QUÝ CÔNG TÔN THẦN ( huý NGUYỄN CÔNG ĐẶNG). Lễ hội lưu truyền đến ngày nay.
Tự hào nhất đối với dân làng được vua Duy Tân niên hiệu năm thứ 7 và vua Khải Định năm thứ 9 đã ban chiếu truy tặng sắc phong ngài NGUYỄN QUANG ĐẠI LANG là CHÍNH TIỀN KHAI KHẨN ( sắc phong hiện còn lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Quang)



Hai sắc phong được lưu giử tại nhà thờ họ Nguyễn Quang


Đình làng

Lăng ngài CHÁNH TIỀN KHAI KHẨN  Cũng là Ngài Thỉ Tổ Họ Nguyễn Quang

Lăng TỊNH BÀ CHÁNH TIỀN KHAI KHẨN
                                                    
                                     Miếu ngài Chánh Tiền khai khẩn
              Miếu ngài ĐẶC TẤN PHỤ QUỐC ( Thường được gọi là miếu Ông) 
                  Bức hoành phi tại nhà thờ họ Nguyễn Quang (  làm 1938)
                                         Nhà thờ họ Nguyễn Quang
                                               Nhà thờ họ Hồ Văn
                                                    Nhà thờ họ Hoàng
                                         Nhà thờ họ Nguyễn Công
                                  Nhà thờ họ Nguyễn Đình Văn
                                         Nhà thờ họ Nguyễn Văn

(Để đọc được chữ Hán thì máy cần bổ sung phong chữ PMingLiu hoặc MSONG)
 Chú thích:  chữ Hán  ( theo http://vietnamtudien.org/hanviet; http://caodaism. Org/caodaiTuDien và  http: vi. Wikipedia. org)  
   ngu   ngu si ;    ngu   ngu lạc       vui sướng. ;   ngu  Giản thể của chữ ;    ngu xúm xít. Tả cái hình trạng tụ đông đ úc
Ngu : làng Ngu ; Bộ lạc Hữu Ngu  
  ngô  Tên nước, chư hầu nhà Chu , nay ở vào khoảng tỉnh Giang .   : ngô  Tục dùng 

KÝ ỨC SÔNG QUÊ


KÝ ỨC SÔNG QUÊ
05:26 19 thg 6 2011Công khai12 Lượt xem 0

  Cũng như bao làng quê khác. Làng tôi cũng có con sông,bến nước, con đò. Con sông có tự thuở nào không rõ, nghe người ta kể vào thời nhà Nguyễn có Ngài hậu quân, quê ở thôn Đạo Đầu dẫn dân công đào tiếp từ làng La Duy đến làng Cu Hoan. Dòng sông Vĩnh Định trong mát hiền hoà chạy dọc theo địa hình làng, bên bồi bên lở, ngăn cách làng tôi với làng Trà Trì và Văn Vận. Dọc theo bờ sông có những hàng tre xanh nghiêng mình soi bóng hoặc những cây cừa tán rộng là nơi neo đậu nghỉ mát của dân chài. 
   Ngày xưa, khi tôi còn nhỏ thường được mẹ dẫn ra tắm ở dòng sông. Đường xuống bến rộng thênh thang, hai bên đường là những hàng cây mướp hoa vàng rực rỡ, quả treo lủng lẳng, những cây cà quả trắng nõn nà xen lẫn những nụ hoa tim tím. Hàng hàng cây thuốc lá ngọn to xoè xếp tầng tầng rung rung theo gió nhẹ thổi qua. Xa nhìn bên kia sông có ngôi miếu nhỏ nấp mình sau đám cây lau nở bông trắng xoá.  
   Tôi lớn dần theo dòng sông cũng như bao người dân quê khác, tuổi thơ tôi gắn liền với dòng sông. Sáng sáng, chiều chiều ra sông tắm mát, bơi lội và nô đùa. Bao cô thôn nữ quang gánh ra sông gánh nước, vì thời đó chưa có giếng nước như bây giờ. Bến nước được xây dựng theo từng bậc thang có chỗ để giặt quần áo.
     Ngồi bên bờ nước chúng tôi dùng cát ướt lẫn với nước cho nhỏ giọt tạo thành những lâu đài tuyệt đẹp. Nhìn những ông ngư dân mình trần, nước da đen bóng thân hình lực lưỡng như những võ sĩ quăng chài bắt cá rất thích thú. Rồi những ghe xuồng nhỏ vây quanh như một trận đánh với sơ đồ hình bát quái, họ gõ gõ vào các thanh gỗ trên xuồng đều đặn tạo nên những âm thanh lóc cóc, lòng còng để đuổi vây cá vào vùng đánh bắt thật điêu luyện. Chiếc thuyền lớn dương càng như cái dũi từ từ nâng lên, những chú cá chạy tung toé nước, nhảy lanh chanh, lòng họ mừng vui hớn hở.
  Đâu đó, dưới những cây dưa, cây quả, chú dế đang gồng mình oai phong reng reng tự đắc như vừa thắng trận sau cuộc chọi dế, lũ chúng tôi lại chia nhau rình mò đi tìm.
   Thi thoảng, những chiếc xuồng máy chở khách từ chợ Ngô Xá lên thị xã Quảng Trị hay Đông Hà và ngược lại tạo nên những con sóng nhỏ xô đuổi nhau vỗ vào bờ làm tan vở những lâu đài cát của chúng tôi.
   Một vài chiếc thuyền chèo thả buồm lướt nhẹ trên sông, chở đầy hàng hoá của các thương nhân, họ đang đi về tận đâu đâu bình thản không vội vàng, chiếc áo phập phồng theo làn gió, họ đang thả hồn theo cơn gió nhẹ hiu hiu nhìn mây trời trôi trên sông nước hữu tình.
  Những bè tre từ Ba lòng được ghép với nhau người đứng trên chống trôi theo nước về xuôi. Dòng sông là một con đường thông thương nối liền các vùng quê.
   Đêm đến, dòng sông như được thả hoa đăng ven bờ, người đánh bắt tôm với những ngọn đèn dầu đặt trong các chai nước suối cắt miệng chèo ghe nhỏ thoăn thoắt dọc dòng sông. Tiếng nói tiếng cười vui vẻ vang vọng trong đêm vắng.Văng vẳng xa đưa tiếng hò của người đi chợ Phiên trên con đò dọc “ hò ơ, sông dài bờ rộng bến cô liêu”.
     Vào những đêm trăng sáng tỏ,dòng sông ánh lên một màu trắng bạc lấp lánh như thủy ngân. Dân làng sau một ngày làm đồng vất vả cùng nhau ra sông tắm mát, rũ sạch những lo toan ưu phiền và mệt nhọc của ngày thường để rồi chìm sâu trong giấc ngủ. Trẻ con nô đùa trên những bãi cát bồi. Hình ảnh một làng quê thanh bình, dân quê hiền lành và chất phác. Con sông là mạch sống của họ. Những máy bơm nước nổ đều đều vẫn miệt mài đưa nước vào đồng ruộng cho mùa bội thu.
    Đến mùa lũ, nước từ thượng nguồn đổ về mang theo bao phù sa đổ vào đồng ruộng, bờ nương cho đất thêm màu mỡ, cá tôm cũng về theo để sinh sôi nảy nở nuôi sống dân chài.
   Thế rồi chiến tranh xảy ra, nhân dân li tán, dòng sông vắng lặng. Sông nằm yên nghe tiếng quân đi, đôi khi sông nín thở vì tiếng bom gầm đạn réo. Bao nhiêu trai làng lên đường ra mặt trận, họ từ biệt dòng sông với bao tình cảm thân thương với bao hò hẹn đôi lứa, để rồi có người vĩnh viễn không về lại với dòng sông nơi có người con gái xoã tóc ngồi đợi bên bến nước. Hoà bình lập lại, công trình thuỷ lợi Nam Thạch Hản được xây dựng đưa nước đi khắp ruộng đồng, dòng sông bị chặn lại nước ngưng chảy, con sông hẹp dần bèo rong che kín mặt sông khi nắng hạn, bến nước bị vùi lấp, đường xuống sông không còn nữa, cỏ rác thả đầy sông, hàng trăm tấn thuốc độc trừ sâu trừ cỏ ở các đồng ruộng theo các con kênh đào chảy xuống sông chẳng còn ai quan tâm nữa. Trẻ con không còn chỗ để tập bơi. Bãi cát giờ đây là một rừng cây sắn cao quá đầu người, không còn lối đi che khuất cả dòng sông
    Việc đánh bắt cá theo truyền thống không còn, thay vào đó là những giàn rớ quay như nâng cả khúc sông lên bờ để bắt cá. Đêm đến con sông vắng lặng chẳng khác nào khe suối của những vùng hoang sơ không một tiếng người chỉ còn nghe tiếng ếch nhái , ểnh ương, len lỏi một vài ánh đèn pin như những thợ săn nơi rừng rậm đang rình mò săn mồi của những tay xung điện bắt cá tận diệt hết cả từng con tép nhỏ. Cá ở thượng nguồn không về được, nguồn sông cạn dần dân chài phải kiếm kế sanh nhai khác .
    Quê nghèo xưa nay đã khấm khá hơn nhiều, không còn cảnh nhà tranh vách đất. Đời sống kinh tế đầy đủ, đình chùa miếu mạo khang trang, nhà thờ họ tộc đã được xây dựng lại mới để thờ tự theo ước nguyện tâm linh của dân làng. Đường làng ngõ xóm bê tông hoá sạch sẽ, mọi việc đều tốt cả v.v…Nhưng con sông đang chết dần, bến nước còn đâu? chẳng ai còn để ý nữa.
    Xin mượn mấy vần thơ của anh Hồ Văn Điệu (có chỉnh sửa) để nói lên cảnh của dòng sông hôm nay.
Trời còn mưa lụt giữa mùa đông
Vĩnh Định-Sông nay đã đổi dòng
Lũ đến, nước xuôi vùng phá biển
Lũ xong, dòng ngược Bích La Đông
Bập bềnh cỏ rác, khi mưa xuống
Chi chít bèo rong, lúc nước ròng
Ô nhiễm  môi trường không kể xiết
Có nghe tiếng nói của dòng sông
     Ngô Xá Tây ngày 17- 6 -2011

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

NHỚ RỪNG


Năm năm lội suối băng rừng
Mình mang cái chữ trao từng bản thôn
Nhớ sao những buổi hoàng hôn !
Trăng treo đỉnh núi trăng vờn cùng mây
Quên sao những tháng những ngày ?
Củ mài,củ sắn,củ khoai đỡ lòng
Ở nhà vợ nhớ con trông
Mẹ thời ốm nặng rất mong con về
Học trò dăm đứa a ê
Trường tranh nứa lá bốn bề trống không
Nhớ sao cái rét đêm đông
Ngồi bên bếp lữa mà lòng tái tê
Nhớ từng đồng chí bạn bè
Mỗi người một bản qua về có nhau
Những khi sốt rét ốm đau
Giúp nhau điều trị mong mau chóng lành
Năm năm theo những bước chân
Sê-pôn soi bóng thác ghềnh cheo leo*
Năm năm cái chữ mang theo
Rừng xanh chim hót, mình gieo hạt mầm
            ***
Nhà sàn mái lá đơn sơ
Ăm-pi ăm-pã bây giờ ra sao ? **
Nhớ từng em nhỏ năm nào
Đôi mắt sâu thẳm như sao trên trời
Con thuyền độc mộc buông lơi
Vài cô sơn nữ vui chơi giữa dòng
Ô kìa dưới gốc cây thông
Chú chim bói cá đang trông chờ mồi
Hoẳng đâu toang toác bên đồi
Núi rừng hùng vĩ cho tôi nặng lòng.
* Sê-pôn : con sông biên giới Việt Lào theo các xã Thanh ,Thuận ..Hướng Hoá Quảng Trị
** Ăm-pi :Mẹ, Ăm-pã : Bố theo tiếng Vân kiều
               NA 23-12-2009