Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

LÀNG NGÔ XÁ


NGÔ XÁ  ( )
Đầu làng
   
Là dân làng Ngô Xá nhưng có lần có anh bạn hỏi tôi gốc tích thế nào về làng  Ngô Xá. Thực sự tôi chẳng rõ. Một số làng lấy tên Họ tộc lớn đặt tên làng như : Mai Xá, Văn Xá... Nhưng làng tôi không có họ Ngô.Câu hỏi còn vấn vương mãi trong tôi.Trong đợt Làng văn hoá có bài viết tiểu sử làng nhưng tôi thấy còn mơ hồ .
     Vừa rồi, tôi đã gặp một thông nho gần đất xa trời còn sót lại của làng nhưng trí tuệ còn minh mẫn ngoài suy nghĩ của tôi . Đó là cụ NGUYỄN VĂN HOẠT
      Sách vở của cụ còn ghi chép đầy đủ, cụ đã từng viết văn sớ cho làng trong những lễ tế thần, đọc và dịch các tư liệu của làng do Tổ tiên để lại. Sau khi tìm hiểu thực sự tôi không biết chữ Hán nhưng những gì cụ viết ra tôi về tra cứu lại tự điển thấy chính xác. Sau đây là lược trích những gì từ tư liệu của cụ: 
( Trích tư liệu của làng – Bài do ông NGUYỄN VĂN HOẠT viết)

        Truy nguyên tiểu sử, năm hiệu HỒNG ĐỨC  di dân vào Nam khai thác sự nghiệp(Lê Thánh Tôn). Lúc bấy giờ năm 1537 về sau, nhà hậu Lê nhược yếu giữa giao tranh Chúa Nguyễn ,Chúa Trịnh, nhà Mạc,Tây Sơn .Lúc đó các Ngài ở Nghệ Tỉnh ( nay Chư vị Thỉ Tổ làng) đi vào cùng nhau đồng cư, đồng canh khẩn thành địa giới : Phía nam dọc sông Vĩnh Định ; thượng tự hà đầu cầu giáp Thâm Triều;chí tà chuyển xứ cầu Xuân dương; ba châu thổ giáp hà La Duy ; đông bắc giáp thâm điền Mỹ Khê, Đồng Bào, Trung An ; tây bắc giáp Đạo Đầu, Thanh Lê, đồng Trà Trì,An Trú.Gồm có 18 xứ đồng: Đạc Hói, Cồn Cát, Cồn Lừa, Cồn Bội, Mộ súng,Cồn Hói, Cồn Lệch,Cồn Bội, Khúc Đá, Đồng Gò, Đồng Cựa, Đạc Bàu, Cồn Miếu, Cồn kềng, Cồn Cương, Bàu quân, Cồn Dương, Mộ địa(8 khoảnh).    
Tự canh tự trưng chỉ có dạ bộ thuế lệ thời đó thôi. Đặt tên làng là NGU XÁ, qua năm 1665 lập kiến canh châu bộ,thiết lập tôn miếu, đình,chùa. Tên làng chữ không tốt xin đổi lại là PHƯỚC XÁ,về sau niên hiệu GIA LONG năm 1811 toản tu địa bộ toàn công không được tự canh,(tên làng phạm huý) đổi lại là NGÔ XÁ .(Lấy tự tích chữ Ngu bỏ tên đầu thành chữ Ngô) .
虞 舍: Ngu xá ;     : Ngô xá
Dân làng gồm có 14 họ:
1.     Họ Nguyễn Quang
2.     Họ Hồ Văn
3.     Họ Hoàng
4.     Họ Hồ Văn
5.     Họ Nguyễn Công
6.     Họ Lê Văn
7.     Họ Nguyễn Đình Văn
8.     Họ Nguyễn Hữu
9.     Họ Nguyễn Tham
10.             Họ Phạm
11.             Họ Nguyễn Văn
12.             Họ Nguyễn Văn
13.             Họ Nguyễn Chơn
14.              Họ Trần  
Lúc đó ,dân làng càng ngày càng đông,khó bề trị an đồng tình xin phân chia thành hai làng: Ngô Xá Tây giáp và Ngô Xá Đông giáp.
Làng Ngô Xá Tây gồm các họ:
1.     Họ Nguyễn Quang
2.     Họ Hồ Văn
3.     Họ Hoàng
4.     Họ Hồ văn
5.     Họ Nguyễn Công
6.     Họ Nguyễn Đình Văn
7.     Họ Nguyễn Hữu
8.     Họ Nguyễn Tham
9.     Họ Phạm
10.   Họ Nguyễn Văn
( Ba họ : Nguyễn Hữu, Nguyễn Tham và họ Phạm nay không còn nữa)
Làng Ngô Xá Đông gồm các họ:
1.     Họ Nguyễn Chơn
2.     Họ Nguyễn Văn
3.     Họ Lê Văn
4.     Họ Trần
 Sau năm 1812 hội đồng dân làng Ngô Xá Tây giáp tái lập lại đình, chùa, miếu vũ thờ các vị tiền công tại địa chỉ bây giờ, chiều một hướng tây,trước gia cư dân làng.
Đình làng rộng rải trồng cây bóng mát, phong cảnh thâm nghiêm. Hàng năm tổ chức các lễ hội truyền thống và làm nơi hội họp của dân làng. Hàng năm vào ngày 17 tháng 2 âm lịch huý kỵ ngài chính tiền khai khẩn NGUYỄN QUANG ĐẠI LANG ( huý NGUYỄN QUANG THẮNG), dân làng đi tảo mộ. Ngày 9 và 10 tháng 4 âm lịch làng tổ chức kỵ ngài ĐẶC TẤN PHỤ QUỐC-THƯỢNG TƯỚNG QUÂN CẨM Y VỆ -ĐÔ CHỈ HUY SỨ-TƯ ĐÔ CHỈ HUY SỨ AI LAO DINH CAI ĐỘI ĐĂNG TÀI HẦU HIỂN NHƠN NGUYỄN QUÝ CÔNG TÔN THẦN ( huý NGUYỄN CÔNG ĐẶNG). Lễ hội lưu truyền đến ngày nay.
Tự hào nhất đối với dân làng được vua Duy Tân niên hiệu năm thứ 7 và vua Khải Định năm thứ 9 đã ban chiếu truy tặng sắc phong ngài NGUYỄN QUANG ĐẠI LANG là CHÍNH TIỀN KHAI KHẨN ( sắc phong hiện còn lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Quang)



Hai sắc phong được lưu giử tại nhà thờ họ Nguyễn Quang


Đình làng

Lăng ngài CHÁNH TIỀN KHAI KHẨN  Cũng là Ngài Thỉ Tổ Họ Nguyễn Quang

Lăng TỊNH BÀ CHÁNH TIỀN KHAI KHẨN
                                                    
                                     Miếu ngài Chánh Tiền khai khẩn
              Miếu ngài ĐẶC TẤN PHỤ QUỐC ( Thường được gọi là miếu Ông) 
                  Bức hoành phi tại nhà thờ họ Nguyễn Quang (  làm 1938)
                                         Nhà thờ họ Nguyễn Quang
                                               Nhà thờ họ Hồ Văn
                                                    Nhà thờ họ Hoàng
                                         Nhà thờ họ Nguyễn Công
                                  Nhà thờ họ Nguyễn Đình Văn
                                         Nhà thờ họ Nguyễn Văn

(Để đọc được chữ Hán thì máy cần bổ sung phong chữ PMingLiu hoặc MSONG)
 Chú thích:  chữ Hán  ( theo http://vietnamtudien.org/hanviet; http://caodaism. Org/caodaiTuDien và  http: vi. Wikipedia. org)  
   ngu   ngu si ;    ngu   ngu lạc       vui sướng. ;   ngu  Giản thể của chữ ;    ngu xúm xít. Tả cái hình trạng tụ đông đ úc
Ngu : làng Ngu ; Bộ lạc Hữu Ngu  
  ngô  Tên nước, chư hầu nhà Chu , nay ở vào khoảng tỉnh Giang .   : ngô  Tục dùng 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét