NGÔ XÁ ( 吴 舍)
Đầu làng
Là dân làng Ngô Xá nhưng có lần có anh bạn hỏi tôi gốc tích thế nào về làng Ngô Xá. Thực sự tôi chẳng rõ. Một số làng lấy tên Họ tộc lớn đặt tên làng như : Mai Xá, Văn Xá... Nhưng làng tôi không có họ Ngô.Câu hỏi còn vấn vương mãi trong tôi.Trong đợt Làng văn hoá có bài viết tiểu sử làng nhưng tôi thấy còn mơ hồ .
Vừa rồi, tôi đã gặp một thông nho gần đất xa trời còn sót lại của làng nhưng trí tuệ còn minh mẫn ngoài suy nghĩ của tôi . Đó là cụ NGUYỄN VĂN HOẠT
Sách vở của cụ còn ghi chép đầy đủ, cụ đã từng viết văn sớ cho làng trong những lễ tế thần, đọc và dịch các tư liệu của làng do Tổ tiên để lại. Sau khi tìm hiểu thực sự tôi không biết chữ Hán nhưng những gì cụ viết ra tôi về tra cứu lại tự điển thấy chính xác. Sau đây là lược trích những gì từ tư liệu của cụ:
( Trích tư liệu của làng – Bài do ông NGUYỄN VĂN HOẠT viết)
Truy nguyên tiểu sử, năm hiệu HỒNG ĐỨC di dân vào
Tự canh tự trưng chỉ có dạ bộ thuế lệ thời đó thôi. Đặt tên làng là NGU XÁ, qua năm 1665 lập kiến canh châu bộ,thiết lập tôn miếu, đình,chùa. Tên làng chữ không tốt xin đổi lại là PHƯỚC XÁ,về sau niên hiệu GIA LONG năm 1811 toản tu địa bộ toàn công không được tự canh,(tên làng phạm huý) đổi lại là NGÔ XÁ .(Lấy tự tích chữ Ngu bỏ tên đầu thành chữ Ngô) .
虞 舍: Ngu xá ; 吴 舍: Ngô xá
Dân làng gồm có 14 họ:
1. Họ Nguyễn Quang
2. Họ Hồ Văn
3. Họ Hoàng
4. Họ Hồ Văn
5. Họ Nguyễn Công
6. Họ Lê Văn
7. Họ Nguyễn Đình Văn
8. Họ Nguyễn Hữu
9. Họ Nguyễn Tham
10. Họ Phạm
11. Họ Nguyễn Văn
12. Họ Nguyễn Văn
13. Họ Nguyễn Chơn
14. Họ Trần
Lúc đó ,dân làng càng ngày càng đông,khó bề trị an đồng tình xin phân chia thành hai làng: Ngô Xá Tây giáp và Ngô Xá Đông giáp.
Làng Ngô Xá Tây gồm các họ:
1. Họ Nguyễn Quang
2. Họ Hồ Văn
3. Họ Hoàng
4. Họ Hồ văn
5. Họ Nguyễn Công
6. Họ Nguyễn Đình Văn
7. Họ Nguyễn Hữu
8. Họ Nguyễn Tham
9. Họ Phạm
10. Họ Nguyễn Văn
( Ba họ : Nguyễn Hữu, Nguyễn Tham và họ Phạm nay không còn nữa)
Làng Ngô Xá Đông gồm các họ:
1. Họ Nguyễn Chơn
2. Họ Nguyễn Văn
3. Họ Lê Văn
4. Họ Trần
Sau năm 1812 hội đồng dân làng Ngô Xá Tây giáp tái lập lại đình, chùa, miếu vũ thờ các vị tiền công tại địa chỉ bây giờ, chiều một hướng tây,trước gia cư dân làng.
Đình làng rộng rải trồng cây bóng mát, phong cảnh thâm nghiêm. Hàng năm tổ chức các lễ hội truyền thống và làm nơi hội họp của dân làng. Hàng năm vào ngày 17 tháng 2 âm lịch huý kỵ ngài chính tiền khai khẩn NGUYỄN QUANG ĐẠI LANG ( huý NGUYỄN QUANG THẮNG), dân làng đi tảo mộ. Ngày 9 và 10 tháng 4 âm lịch làng tổ chức kỵ ngài ĐẶC TẤN PHỤ QUỐC-THƯỢNG TƯỚNG QUÂN CẨM Y VỆ -ĐÔ CHỈ HUY SỨ-TƯ ĐÔ CHỈ HUY SỨ AI LAO DINH CAI ĐỘI ĐĂNG TÀI HẦU HIỂN NHƠN NGUYỄN QUÝ CÔNG TÔN THẦN ( huý NGUYỄN CÔNG ĐẶNG). Lễ hội lưu truyền đến ngày nay.
Tự hào nhất đối với dân làng được vua Duy Tân niên hiệu năm thứ 7 và vua Khải Định năm thứ 9 đã ban chiếu truy tặng sắc phong ngài NGUYỄN QUANG ĐẠI LANG là CHÍNH TIỀN KHAI KHẨN ( sắc phong hiện còn lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Quang)
Hai sắc phong được lưu giử tại nhà thờ họ Nguyễn Quang
Đình làng
Lăng ngài CHÁNH TIỀN KHAI KHẨN Cũng là Ngài Thỉ Tổ Họ Nguyễn Quang
Lăng TỊNH BÀ CHÁNH TIỀN KHAI KHẨN
Miếu ngài Chánh Tiền khai khẩn
Miếu ngài ĐẶC TẤN PHỤ QUỐC ( Thường được gọi là miếu Ông)
Bức hoành phi tại nhà thờ họ Nguyễn Quang ( làm 1938)
Nhà thờ họ Nguyễn Quang
Nhà thờ họ Hồ Văn
Nhà thờ họ Hoàng
Nhà thờ họ Nguyễn Công
Nhà thờ họ Nguyễn Đình Văn
Nhà thờ họ Nguyễn Văn
(Để đọc được chữ Hán thì máy cần bổ sung phong chữ PMingLiu hoặc MSONG)
Chú thích: chữ Hán ( theo http://vietnamtudien.org/hanviet; http://caodaism. Org/caodaiTuDien và http: vi. Wikipedia. org)
愚 ngu ngu si ; 娛 ngu ngu lạc 娛樂 vui sướng. ; 娱 ngu Giản thể của chữ 娛 ; 麌 ngu 麌麌 xúm xít. Tả cái hình trạng tụ đông đ úc
虞 Ngu : làng Ngu ; 有虞 Bộ lạc Hữu Ngu
吳 ngô Tên nước, chư hầu nhà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét